Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Việt Nam luôn lấy con người là trung tâm, là động lực của quá trình đổi mới, của công cuộc phát triển đất nước và luôn nỗ lực vì mục tiêu nâng cao đời sống, quyền thụ hưởng của người dân, không để ai bị bỏ lại phía sau. Trên cơ sở đó, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong bảo vệ quyền con người.
* Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người
Pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, do đó, ngay từ rất sớm, Nhà nước Việt Nam đã xây dựng và ban hành nhiều văn bản pháp luật về quyền con người.
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên năm 1930, Đảng ta xác định, mục tiêu của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” (1). Theo đó, nhiệm vụ của Đảng là tập hợp lực lượng toàn dân, tiến hành đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Đảng, Nhà nước Việt Nam tiếp tục tập trung quan tâm sâu sắc đến vấn đề bảo đảm quyền con người. Theo đó, quyền con người đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959.
Trong thời gian này, nhà nước Việt Nam cũng bước đầu tham gia vào hệ thống pháp luật quốc tế về quyền con người. Năm 1957, Việt Nam tham gia 4 Công ước Giơ-ne-vơ của Luật Nhân đạo quốc tế. Sau khi là thành viên của Liên hợp quốc (LHQ), Việt Nam đã tích cực, chủ động tham gia vào các công ước quốc tế về quyền con người của LHQ. Tính đến năm 2022, Việt Nam đã phê chuẩn, gia nhập 7/9 công ước cơ bản của LHQ về quyền con người; phê chuẩn, gia nhập 25 công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), trong đó có 7/8 công ước cơ bản.
Cùng với việc tích cực tham gia các điều ước quốc tế về quyền con người, Nhà nước Việt Nam đã nỗ lực xây dựng hệ thống pháp luật, trong đó tích cực nội luật hóa các nguyên tắc, tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người; bảo đảm sự hài hòa giữa pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế.
Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 được xem là đỉnh cao trong hoạt động lập hiến về bảo vệ quyền con người ở Việt Nam, khẳng định sự nhất quán về nội dung quyền con người, quyền công dân trong các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992; đồng thời, bổ sung nhận thức mới, đầy đủ, sâu sắc và toàn diện hơn trong việc thể chế hóa quan điểm của Đảng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và chuẩn mực quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia.
Hiến pháp năm 2013 quy định bản chất quyền lực của Nhà nước Việt Nam là: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân… Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân… Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân… (Điều 1, Điều 2, Điều 3, Hiến pháp năm 2013).
Hiến pháp năm 2013 có 120 điều, thì đã dành trọn 36 điều quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Ngoài ra, các nội dung liên quan đến quyền con người còn được đưa vào nhiều chương khác của Hiến pháp nhằm tạo cơ sở pháp lý cao nhất để mọi công dân đều được thụ hưởng, thực hiện và bảo vệ quyền con người của mình. Đồng thời, đặt ra nghĩa vụ, trách nhiệm cho các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước... phải nâng cao tinh thần trách nhiệm xã hội, trách nhiệm pháp lý tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người đã được Hiến pháp quy định.
* Bảo đảm quyền con người trên mọi lĩnh vực
Với những nỗ lực xây dựng và thực thi pháp luật về quyền con người, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận trong việc bảo đảm quyền con người trên tất cả các khía cạnh của đời sống xã hội.
Trên lĩnh vực dân sự, chính trị, các quyền con người về dân sự, chính trị đã được bảo đảm trong quá trình thực thi chính sách, pháp luật. Việc bảo đảm quyền sống còn được quan tâm về khía cạnh kinh tế, xã hội thông qua việc thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững; tăng cường khả năng tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bà mẹ và trẻ sơ sinh; thực hiện các biện pháp cứu trợ khẩn cấp đối với những vùng chịu thiệt hại nặng do thiên tai, dịch bệnh.
Hoặc, đối với quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, Việt Nam đã xây dựng khuôn khổ pháp lý vững chắc về bảo đảm quyền này trong Hiến pháp năm 2013, trong Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016. Nhà nước tạo thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo.
Việt Nam cũng đạt được nhiều thành tựu về quyền tự do tiếp cận internet, tự do ngôn luận, báo chí, sử dụng mạng xã hội. Hiện nay, Việt Nam khoảng 70 triệu người dùng internet. Tính đến cuối năm 2022, cả nước có trên 800 cơ quan báo chí, trong đó có 127 cơ quan báo; 670 cơ quan tạp chí, 72 cơ quan đài phát thanh, truyền hình.
Các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cũng được thực hiện một cách tích cực, đồng bộ trong triển khai các chương trình, mục tiêu, chính sách quốc gia như giảm nghèo; việc làm, thu nhập; an sinh xã hội, quyền được chăm sóc y tế, sức khỏe; quyền được học tập, giáo dục; quyền được tham gia vào đời sống văn hóa…
Hiện nay, hệ thống an sinh xã hội đã được phát triển thành mạng lưới an sinh xã hội, không ngừng mở rộng diện bao phủ các đối tượng an sinh xã hội. Điều này phản ánh rõ nét qua những chuyển biến tích cực trên các phương diện như: Hệ thống bảo hiểm xã hội; hệ thống hỗ trợ giải quyết việc làm; hệ thống trợ giúp xã hội; hệ thống chính sách ưu đãi cho người có công và hệ thống bảo đảm tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản (như giáo dục, y tế, nhà ở, thông tin, giao thông, nước sạch...) ngày càng được cải thiện về chất lượng cũng như quy mô dịch vụ, đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt tối thiểu của đại bộ phận người dân, đặc biệt là nhóm dân cư tại các vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo, những địa bàn đặc biệt khó khăn.
Theo bà Caitlin Wiesen, nguyên trưởng Đại diện thường trú Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam, một trong nhiều thành tựu tiến bộ mà bà ấn tượng về Việt Nam so với các quốc gia trong khu vực, đó chính là công cuộc xóa đói giảm nghèo cho người dân. Tình trạng nghèo cùng cực tại Việt Nam đã giảm từ tỷ lệ cao nhất khoảng 40% ở những năm 1990 xuống dưới 5% vào năm 2020. Đó chính là sự thay đổi phi thường.
Ngoài ra, trong đại dịch COVID-19 vừa qua, bà Caitlin Wiesen cũng đánh giá rất cao những thành tựu mà chính phủ Việt Nam đạt được trong việc đảm bảo sự an toàn cho người dân, với phương châm “không để ai bị bỏ lại phía sau”. Chính phủ đã kịp thời ban hành nhiều chính sách về bảo đảm quyền lợi của những người bị tác động của đại dịch thông qua các gói an sinh xã hội.
Vấn đề bảo đảm quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương, như: phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số… cũng đã đạt được nhiều kết quả tích cực, xét theo các tiêu chí như: chống phân biệt đối xử; khả năng tiếp cận bình đẳng và chất lượng các dịch vụ, cơ hội…
Theo Vụ Bình đẳng giới, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội năm 2022, Việt Nam đứng thứ 60 trên thế giới, đứng thứ 4 ở châu Á và đứng đầu trong Hội đồng Liên minh nghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á về tỷ lệ nữ tham gia cơ quan dân cử; đứng thứ 3 trong khu vực ASEAN và thứ 47/187 quốc gia trên thế giới tham gia xếp hạng về bình đẳng giới trong tham chính và trong công tác quản lý; trong lĩnh vực kinh tế, cơ hội lao động, việc làm của phụ nữ như nam giới, thậm chí phụ nữ được ưu tiên trong một số lĩnh vực như: giáo dục, y tế... Tỷ lệ doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ đạt 26,5%, xếp thứ 9/58 quốc gia, nền kinh tế được nghiên cứu.
Giám đốc quốc gia Cơ quan Phát triển Pháp - ông Hervé Conan - rất ấn tượng về những thành tựu của Việt Nam trong việc thúc đẩy bình đẳng giới: “Hình ảnh của người phụ nữ hiện nay hoàn toàn khác với hình ảnh cách đây 30 năm, vốn luôn gắn liền với công việc bếp núc và chăm lo nhà cửa. Chính phủ Việt Nam đã rất nỗ lực trong việc thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ”.
* Chủ động tham gia hiệu quả vào việc thúc đẩy quyền con người trên thế giới
Không những đạt được nhiều thành tựu về bảo đảm quyền con người, trong nhiều năm qua, Việt Nam còn tích cực, chủ động và có nhiều đóng góp trong lĩnh vực thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trong khu vực và thế giới. Điều này thể hiện rõ thông qua mức độ tín nhiệm với tỷ lệ phiếu đồng thuận rất cao những lần Việt Nam gia nhập Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc và ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Trong giai đoạn 2014-2016, Việt Nam đã đảm nhiệm thành công vai trò thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, góp phần bảo vệ lợi ích quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước. Việt Nam không chỉ tham gia đồng tác giả, đồng bảo trợ hàng chục nghị quyết của Hội đồng Nhân quyền, tập trung vào các lĩnh vực quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương, bình đẳng giới, chống phân biệt đối xử, xóa bỏ các biện pháp cấm vận đơn phương ảnh hưởng đến thụ hưởng quyền con người, quyền của nông dân, vấn đề dân chủ hóa đời sống quốc tế và tăng cường đoàn kết quốc tế, mà còn có nhiều đóng góp, làm cầu nối thúc đẩy hợp tác và đối thoại giữa các nước, các nhóm nước nhằm thúc đẩy cách tiếp cận cân bằng, tiến bộ, hướng tới con người của Hội đồng Nhân quyền trên những vấn đề còn khác biệt (ví dụ như về quyền sức khỏe sinh sản, chống bạo hành với phụ nữ, xóa bỏ phân biệt đối xử và bạo lực dựa trên cơ sở bình đẳng giới và xu hướng tình dục…) Vừa qua, với số phiếu cao, Việt Nam đã trúng cử làm thành viên Hội đồng Nhân quyền, nhiệm kỳ 2023-2025.
Tại khu vực, uy tín của Việt Nam được thể hiện qua vai trò Chủ tịch Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) 2020, đồng thời là Chủ tịch Ủy ban liên chính phủ ASEAN về nhân quyền (AICHR). Trong cuộc họp đặc biệt lần hai của AICHR theo hình thức trực tuyến với sự tham dự của đại diện AICHR, các nước thành viên ASEAN và Ban Thư ký ASEAN, diễn ra cuối tháng 11/2020, các nước đánh giá rất cao vai trò của Việt Nam trên cương vị Chủ tịch AICHR 2020, đã dẫn dắt hoạt động của AICHR trong giai đoạn đặc biệt khó khăn do tác động của đại dịch COVID-19, không chỉ giúp duy trì đà hợp tác của AICHR và ứng phó hiệu quả trước các tác động của đại dịch, mà còn thúc đẩy soạn thảo và thông qua một loạt các văn kiện quan trọng định hướng hợp tác AICHR trong thời gian tới.
Có thể khẳng định, những kết quả, thành tựu to lớn trên lĩnh vực thúc đẩy, bảo vệ, bảo đảm quyền con người mà Việt Nam đã đạt được trong nhiều năm qua, là minh chứng sinh động cho thấy quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam là đúng đắn, là vì quyền con người.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng, trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tiễn sau 35 năm đổi mới xác định lấy “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới…; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu” (2). Đây sẽ là những định hướng quan trọng cho Việt Nam tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật và thực hiện bảo vệ, bảo đảm quyền con người trong giai đoạn mới.
Minh Duyên (TTXVN)
________________
(1): Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 2, tr. 2
(2): Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, tr.28.
Tác giả: Tuấn Ngọc
Nguồn tin: hdll.vn
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn