Đẩy mạnh việc thực hiện quyền tham chính của phụ nữ Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Thứ năm - 05/09/2024 14:18

Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, không chỉ được biết đến qua những đóng góp to lớn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc mà còn qua những tư tưởng tiến bộ về giải phóng phụ nữ, quyền bình đẳng giới, đặc biệt là quyền tham chính của phụ nữ. Tư tưởng của Người về quyền tham chính của phụ nữ không chỉ thể hiện tinh thần nhân văn cao cả mà còn phản ánh một quan điểm xã hội tiến bộ, khi nhìn nhận vai trò và khả năng của phụ nữ trong việc xây dựng và phát triển đất nước trên mọi phương diện, đặc biệt là trong lĩnh vực chính trị.

Chủ tịch Hồ Chí Minh với các đại biểu dự Hội nghị cán bộ nữ toàn miền Bắc năm 1956
Chủ tịch Hồ Chí Minh với các đại biểu dự Hội nghị cán bộ nữ toàn miền Bắc năm 1956

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, giải phóng phụ nữ không chỉ là giải phóng một lực lượng sản xuất mà còn là một lực lượng chính trị to lớn. Người từng khẳng định: “Từ đầu thế kỷ thứ nhất, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, đánh giặc, cứu dân cho đến ngày nay mỗi khi nước nhà gặp nguy nan, thì phụ nữ ta đều hăng hái đứng lên, góp phần xứng đáng của mình vào sự nghiệp giải phóng dân tộc"1. Từ đây, Người đã đặt nền móng cho việc giải phóng và thúc đẩy quyền lợi của phụ nữ trong xã hội Việt Nam, khẳng định rằng phụ nữ không chỉ cần được giải phóng về mặt kinh tế mà còn cần được tham gia vào quản lý và điều hành nhà nước. Người phụ nữ phải được tham gia vào các cấp bậc lãnh đạo, từ cơ sở đến trung ương. Điều này không chỉ là sự công nhận về mặt lý thuyết mà đã được thể hiện qua những chính sách và hành động cụ thể. Ví dụ, việc thành lập các tổ chức phụ nữ như Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là minh chứng cho tư tưởng phát triển toàn diện và bình đẳng giới của Người.

Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng thường xuyên khích lệ phụ nữ nâng cao trình độ chuyên môn, văn hóa và tinh thần trách nhiệm xã hội. Người tin tưởng rằng, qua giáo dục và rèn luyện, phụ nữ không những đảm việc nhà mà còn giỏi việc nước, từ đó có thể đóng góp mạnh mẽ hơn nữa vào sự nghiệp chung của đất nước. Điều này góp phần khẳng định vai trò không thể thiếu của phụ nữ trong mọi mặt của đời sống xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực chính trị với quyền tham chính của mình.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền tham chính của phụ nữ

Trong suốt sự nghiệp hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới mọi giai cấp, mọi tầng lớp, mọi con người trên mọi vùng miền… đặc biệt Người rất quan tâm đến phong trào phụ nữ và vấn đề giải phóng phụ nữ. Ngay từ những năm tháng bôn ba đi tìm đường cứu nước, Người đã luôn quan tâm đến phụ nữ và trẻ em ở những nước thuộc địa nói chung, ở Việt Nam nói riêng. Người cho đó là những lớp người khổ nhất trong những người cùng cực, họ không những phải chịu đựng nỗi đau của người dân mất nước, bị tước đoạt hết các quyền tự do, dân chủ mà còn bị ngược đãi, chà đạp lên cả phẩm giá con người. 

Hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người nhận thấy rõ nguồn gốc căn nguyên của những bất công đối với phụ nữ, đặc biệt là đối với phụ nữ Việt Nam. Đó là quan niệm phong kiến lỗi thời, tư tưởng trọng nam khinh nữ đã tồn tại và trở thành thói quen mấy nghìn năm trong các thế hệ người Việt, dẫn đến việc đánh giá thấp vai trò, vị thế của người phụ nữ trong gia đình và xã hội, người phụ nữ bị đối xử tàn bạo, bị khinh miệt, coi thường. Sang thời kỳ thực dân Pháp vào “khai hóa" nước ta, mặc dù núp dưới khẩu hiệu "Tự do, bình đẳng, bác ái" nhưng thân phận người phụ nữ lại càng cùng cực hơn. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nêu lên một cách đanh thép thực trạng đó: “Dưới chế độ phong kiến và thực dân, phụ nữ bị áp bức tàn tệ. Ngoài xã hội thì phụ nữ bị xem khinh như nô lệ. Ở gia đình thì họ bị kìm hãm trong xiềng xích “tam tòng"”2. 

Thấu hiểu tình cảnh, thân phận của phụ nữ, đồng thời cũng thấy vai trò to lớn của người phụ nữ không chỉ trong sản xuất mà trong cả sự nghiệp cách mạng: “An Nam cách mệnh cũng phải có nữ giới tham gia mới thành công”3 nên Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đặc biệt nêu cao tinh thần giải phóng phụ nữ. Người cho rằng phụ nữ cần được giải phóng về chính trị, xã hội và loại bỏ tính tự ti, phụ thuộc; việc giải phóng phụ nữ nhằm phát triển năng lực cá nhân của phụ nữ, huy động họ tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đồng thời phải tạo nhiều cơ hội cho phụ nữ vươn lên để thật sự bình đẳng với nam giới. Người cho rằng, sự nghiệp giải phóng phụ nữ không chỉ dừng lại ở lý luận, tư tưởng mà quan trọng hơn là phải bằng những giải pháp, chính sách cụ thể tạo điều kiện để phụ nữ tham gia vào mọi mặt của đời sống xã hội đem lại quyền lợi vật chất, tinh thần cho phụ nữ, đặc biệt là đem lại quyền tham chính cho phụ nữ.

Theo Người, quyền tham chính của phụ nữ chính là bình đẳng về chính trị cho người phụ nữ. Có nghĩa là người phụ nữ trước hết phải được trang bị về mặt lý luận, phải tổ chức cho họ tham gia tích cực cuộc đấu tranh giải phóng cho chính họ. Sau đó là sự đảm bảo cho họ quyền tham gia các hoạt động chính trị như: quyền bầu cử, quyền ứng cử…, trở thành cán bộ lãnh đạo, quản lý một cách bình đẳng với nam giới đồng thời phải đảm bảo quyền ngôn luận, đi lại, cư trú và quyền bình đẳng trước pháp luật của họ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn động viên, khuyến khích phụ nữ tham gia vào hoạt động chính trị

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, phụ nữ Việt Nam lần đầu tiên được thực hiện quyền tham chính của mình chính là được bầu cử trong cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội ngày 06/01/1946. Lần đầu tiên trong lịch sử, tất cả nữ công dân từ 18 tuổi trở lên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được tham gia bầu cử. Đặc biệt là lần đầu tiên trong lịch sử đất nước, có 10 đại biểu nữ đã trúng cử vào Quốc hội. Kết quả này là sự biểu hiện sinh động quá trình nhận thức, vận động và tổ chức thực hiện quan điểm giải phóng phụ nữ nhất là giải phóng về mặt chính trị trong tư tưởng của người đứng đầu nhà nước - Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, phụ nữ có quyền tham gia mọi hoạt động chính trị một cách bình đẳng như nam giới, có quyền bầu cử, ứng cử, có quyền tự do ngôn luận, đi lại, cư trú và quyền bình đẳng trước pháp luật. Tư tưởng này của Người đã được cụ thể hóa trong các quy định của Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, do Người là Trưởng ban soạn thảo. Điều 24 Hiến pháp năm 1946 khẳng định: “Phụ nữ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình”. Cụ thể hơn về quyền tham chính của phụ nữ được quy định như: tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức hội họp, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài, tự do tín ngưỡng (Điều 10), tự do về thân thể (không bị bắt bớ, giam cầm nếu không có quyết định của Tòa), thư tín, nhà ở không ai được xâm phạm (Điều 11), bầu cử, ứng cử, bãi miễn (Điều 17,18,19), phúc quyết về Hiến pháp và những quan hệ đến vận mệnh quốc gia (Điều 21)4 .

Với việc công nhận sự bình đẳng với nam giới về mọi phương diện, Hiến pháp năm 1946 mở ra cho phụ nữ Việt Nam một thời đại mới - thời đại mà người phụ nữ được làm chủ cuộc sống của mình, được tham gia các hoạt động xây dựng và kiến thiết đất nước. Đó là những quyền và nghĩa vụ mà người phụ nữ chưa từng được thừa hưởng trong các chế độ xã hội trước. Những quy định về quyền bình đẳng nam nữ được ghi trong Hiến pháp, pháp luật đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng về địa vị pháp lý của phụ nữ Việt Nam và thể hiện tính nhân văn, tầm nhìn vượt thời đại, tư duy chính trị sắc sảo của Hồ Chí Minh. Lần đầu tiên trong lịch sử, phụ nữ Việt Nam được pháp luật thừa nhận và bảo đảm có những quyền bình đẳng với nam giới trên tất cả các lĩnh vực. Từ đây, người phụ nữ có cơ sở pháp lý để đấu tranh đòi bảo đảm những quyền bình đẳng khác trong cuộc sống của mình.

Bác Hồ với đại biểu phụ nữ các dân tộc Việt Bắc năm 1959. Ảnh: TL

Chủ tịch Hồ Chí Minh  nhấn mạnh về sự cần thiết phải có tổ chức của phụ nữ

Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chỉ ra bản chất cách mạng chính là sự nghiệp của quần chúng nên Người càng nhấn mạnh sự nghiệp giải phóng phụ nữ là do phụ nữ tự giác đứng lên dưới sự lãnh đạo của Đảng. Để thực hiện được đường lối chung và đường lối giải phóng phụ nữ, Người cho rằng cần thiết phải có một tổ chức của phụ nữ, tổ chức đó hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng. 

Không phải tới sau khi cách mạng giành chính quyền mà Hồ Chí Minh mới thấy sự cần thiết có tổ chức của phụ nữ, mà ngay từ khi còn hoạt động cách mạng ở Quảng Châu (Trung Quốc), để thành lập và chỉ đạo hoạt động của Việt Nam cách mạng thanh niên, Người đã nhận thức rõ rằng phụ nữ cần có một tổ chức riêng để họ có thể phát huy tối đa vai trò và khả năng của mình. Việc thành lập tổ chức phụ nữ cho 12 hội viên nữ là bước đi đầu tiên nhằm đảm bảo rằng phụ nữ không chỉ là những người thụ động trong quá trình cách mạng mà còn là những nhân tố tích cực, đóng góp vào sự thành công của cách mạng. Song song với đó, trong các số Báo Thanh niên, là cơ quan ngôn luận của Việt Nam cách mạng thanh niên đã thường xuyên đề cập đến vai trò và công tác phụ nữ. Điều này thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Hồ Chí Minh đối với việc nâng cao nhận thức về vị thế và sức mạnh của phụ nữ trong xã hội, cũng như trao cho họ những công cụ cần thiết để phát triển bản thân và tham gia vào các hoạt động cách mạng.

Phát triển tư tưởng của Người, tháng 10/1930, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ nhất đã ra Nghị quyết vận động phụ nữ. Bản Nghị quyết nhấn mạnh: “Lực lượng cách mạng của phụ nữ là một cái lực lượng rất trọng yếu. Nếu quảng đại quần chúng phụ nữ không tham gia vào những cuộc tranh đấu cách mạng thì cách mạng không thắng lợi được. Bởi vậy, nên công tác trong quần chúng phụ nữ không phải là một cái nhiệm vụ phụ thuộc của Đảng; công tác ấy chánh là một cái nhiệm vụ rất lớn và rất trọng yếu”5.

Trong tác phẩm "Đường Kách mệnh", Hồ Chí Minh còn mang đến cái nhìn sâu sắc về cách tổ chức phụ nữ quốc tế: “Cách tổ chức của phụ nữ quốc tế ra thế nào. Quy tắc và chương trình thì đại khái cũng như Đệ tam quốc tế. Nhưng bên này thì chỉ chuyên trách về mặt tuyên truyền, tổ chức và huấn luyện đàn bà con gái, và giúp về đường giáo dục trẻ con công nông"6. Tư tưởng này thể hiện sự hiểu biết và đánh giá cao các hoạt động tuyên truyền, tổ chức và huấn luyện dành riêng cho phụ nữ. Điều này không chỉ cho thấy sự am hiểu sâu rộng của Người về phong trào phụ nữ toàn cầu mà còn phản ánh mong muốn thực sự của Người trong việc đào tạo và phát triển năng lực cho phụ nữ, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục trẻ em.

Theo Hồ Chí Minh, để giác ngộ phụ nữ, một mặt phải hướng dẫn phụ nữ tham gia vào các đoàn thể như công đoàn, nông hội, đoàn thanh niên cộng sản, đồng thời cũng phải có tổ chức riêng của giới để tập hợp động viên, giáo dục phụ nữ tham gia hoạt động cách mạng, từ đó thông qua sinh hoạt của tổ chức của minh, chị em dễ dàng trao đổi tâm tư nguyện vọng, giúp nhau khắc phục khó khăn để tiến bộ.Với quan điểm: “mỗi đảng cộng sản phải có một bộ phụ nữ, trực tiếp thuộc về Phụ nữ quốc tế"7.  Vào ngày 20/10/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Chỉ thị thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam - một tổ chức dành riêng cho phụ nữ, có nhiệm vụ tập hợp rộng rãi các tầng lớp quần chúng phụ nữ thành một tổ chức thống nhất và đối với thế giới, tổ chức này đủ tư cách là một tổ chức hội phụ nữ quốc gia, gia nhập liên đoàn phụ nữ quốc tế. Song song với đó, Người cho phép ra tờ báo Tiếng gọi, tiền thân của Báo Phụ nữ Việt Nam ngày nay, làm cơ quan ngôn luận, tuyên truyền những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước tới toàn thể chị em phụ nữ. 

Trong suốt những tháng năm hoạt động chính trị sau này, Hồ Chủ tịch cùng với Trung ương Đảng rất chăm lo cho công tác phụ nữ. Hầu hết các ngày kỷ niệm Quốc tế Phụ nữ 8/3, ngày thành lập Hội Phụ nữ Việt Nam 20/10, các cuộc hội nghị, các đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc, Người đều có thư hoặc trực tiếp đến dự để động viên, khen thưởng và chỉ ra nhiệm vụ cho phụ nữ trong từng thời kỳ. Người từng chỉ ra trách nhiệm của Hội để bảo vệ quyền lợi của phụ nữ thì: “Hội phụ nữ và đoàn thanh niên phải phụ trách tuyên truyền và giáo dục một cách rộng khắp và bền bỉ cho mỗi gia đình hiểu rõ pháp luật Nhà nước và thấm nhuần đạo đức xã hội chủ nghĩa về vấn đề ấy”8. Như vậy, vai trò của Hội phụ nữ các cấp cũng như Hội Liên hiệp phụ nữ chính là tuyên truyền và giáo dục trước hết cho chị em phụ nữ và nhân dân hiểu và làm theo các chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Có như vậy mới thực hiện được các mục tiêu giải phóng bản thân phụ nữ và giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp tiến tới giải phóng con người. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để thực hiện được các mục tiêu cách mạng thì Hội Liên hiệp phụ nữ phải là cầu nối giữa Đảng với các tầng lớp phụ nữ thông qua việc tuyên truyền các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, đặc biệt là các chủ trương, chính sách có liên quan đến phụ nữ. Mặt khác, Hội phải sâu sát, nắm bắt tâm tư của chị em phụ nữ để từ đó tham mưu, tư vấn cho các cấp uỷ Đảng, đề xuất với Đảng những chủ trương, chính sách phù hợp với nguyện vọng của quần chúng nói chung và phụ nữ nói riêng. Khi tổng kết 30 năm hoạt động, Người đánh giá cao vai trò của Hội phụ nữ: “Hội Liên hiệp phụ nữ phải là lực lượng mạnh mẽ giúp Đảng động viên, tổ chức và lãnh đạo phụ nữ tiến lên chủ nghĩa xã hội"9.

Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân tiếp Phó Chủ tịch thứ nhất Quốc hội Hungary Márta Mátrai. Ảnh: TTXVN

Chủ tịch Hồ Chí Minh  nhấn mạnh về việc giáo dục, nâng cao nhận thức chính trị cho phụ nữ

Tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền tham chính của phụ nữ không chỉ dừng lại ở việc khuyến khích họ tham gia các hoạt động chính trị, thành lập tổ chức đoàn Hội cho họ sinh hoạt mà Người còn quan tâm tới việc giáo dục, tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức chính trị cho bản thân mỗi người phụ nữ. Bởi Người nhận thức được rằng, sự nghiệp giải phóng phụ nữ về mặt chính trị có thể thực hiện thành công thì ngoài sự quan tâm và tạo điều kiện của Đảng, Nhà nước, các ban, ngành, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam thì chính bản thân từng cá nhân phụ nữ cần phải cố gắng nâng cao nhận thức chính trị đồng thời cũng cần phải có đội ngũ cán bộ nữ mạnh chuyên môn, vững lập trường tư tưởng. Thực tế chứng minh rằng, mọi chủ trương, chính sách, pháp luật có tới được với người dân đặc biệt là giới nữ và thực thi hiệu quả hay không phụ thuộc vào đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ nữ nói riêng, trong đó bao gồm cả đội ngũ cán bộ nữ chuyên trách về những công việc liên quan đến giới của mình. Bởi lẽ cán bộ nữ chính là sợi dây nối liền Đảng với quần chúng phụ nữ, là người hiểu rõ hoàn cảnh sống, hiểu rõ tâm tư tình cảm của phụ nữ, và họ cũng chính là lực lượng lớn mạnh góp phần vào công cuộc xây dựng nước nhà. Chính vì thế, Người từng nhắc nhở: “Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo"10.

Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đến việc bồi dưỡng, đào tạo, đề bạt phụ nữ vào các chức vụ, lãnh đạo chính quyền và các ngành kinh tế, xã hội. Chính vì vậy, mỗi lần đến thăm các lớp bồi dưỡng cán bộ, thăm các nhà máy, xí nghiệp, hợp tác xã nông nghiệp hay dự các hội nghị, Bác thường quan sát xem số lượng cán bộ nữ được tham gia dự hội nghị, tham dự các lớp học ít hay nhiều, số lượng cán bộ nữ được tín nhiệm tham gia công tác quản lý, lãnh đạo là bao nhiêu. Nếu thấy số lượng quá ít, không đảm bảo sự cân bằng giữa hai giới, Người liền nhắc nhở các cấp lãnh đạo trong việc cất nhắc, bố trí, sử dụng cán bộ nữ đặc biệt khi giao công tác cho phụ nữ phải căn cứ vào trình độ của từng người và hết sức tích cực giúp đỡ phụ nữ: “Có cất nhắc cán bộ phụ nữ nhưng chưa mạnh dạn, tức là còn phần nào chưa coi trọng trí tuệ, tài năng của phụ nữ”11. Đặc biệt, Người còn lưu ý đến đội ngũ cán bộ nữ là người dân tộc thiểu số ở miền núi, vùng sâu vùng xa. Trong bài nói chuyện tại Hội nghị tuyên giáo miền núi, Người nhắc nhở: “Cả Hội nghị hơn 200 đại biểu, thế mà chỉ có 5 phụ nữ, trong 5 phụ nữ lại không có một phụ nữ dân tộc thiểu số nào… Một cuộc họp như thế này, mà quên mất vai trò phụ nữ, thì chắc ở địa phương, các chú cũng quên mất vai trò phụ nữ”12.

Theo Hồ Chí Minh việc học tập chính là chiếc chìa khóa vàng mở cửa cho phụ nữ vươn tới thành công, đặc biệt là học tập chính trị. Người đã chỉ ra rằng: “Từ trước đến nay phụ nữ Việt Nam đã có nhiều đóng góp cho cách mạng, phụ nữ ta rất đáng kính, phụ nữ ta có rất nhiều tiến bộ... Nhưng Đảng, Chính phủ và Bác còn mong phụ nữ tiến bộ nhiều hơn nữa. Hiện nay trong các ngành số phụ nữ tham gia còn ít. Đảng và Chính phủ rất hoan nghênh, sẵn sàng cất nhắc và giao cho phụ nữ những chức trách quan trọng. Muốn vậy, bản thân phụ nữ phải gắng học tập chính trị, học tập văn hóa, kỹ thuật; nâng cao tinh thần yêu nước và giác ngộ xã hội chủ nghĩa”13. Như vậy, dù có đề cập đến việc ưu tiên cất nhắc cán bộ nữ, nhưng Người cũng khuyến khích chị em không vì những ưu tiên, đãi ngộ đó mà ỷ lại, mà phải tự mình chứng tỏ năng lực của mình sao cho xứng đáng với sự tin tưởng của tổ chức: “Phụ nữ ta còn có một số nhược điểm như bỡ ngỡ, lúng túng, tự ti, thiếu tin tưởng vào khả năng của mình; mặt khác, phụ nữ cũng còn gặp nhiều khó khăn về gia đình, con cái. Muốn giải quyết khó khăn không nên ỷ lại vào Đảng, Chính phủ mà phải quyết tâm học tập, phát huy sáng kiến, tin tưởng ở khả năng mình, nâng cao tinh thần tập thể, đoàn kết giúp đỡ nhau để giải quyết mọi khó khăn của phụ nữ trong công tác chính quyền”14.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hết sức vui mừng về những thành tích mà chị em phụ nữ đạt được đặt biệt trong lĩnh vực chính trị: “Có so sánh hoàn cảnh phụ nữ ta bây giờ với hoàn cảnh phụ nữ ta trước khi giải phóng, chúng ta mới thấy rõ, từ ngày nước ta được giải phóng đến nay, phụ nữ đều tiến bộ về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Nhưng một trong những tiến bộ rõ rệt nhất là phụ nữ ta hiện nay tham gia chính quyền ngày càng nhiều... Điều đó chứng tỏ Đảng, Chính phủ và nhân dân ta rất xem trọng vai trò phụ nữ và đó cũng là một thắng lợi của nhân dân ta"15.

Như vậy có thể nhận thấy tư tưởng giải phóng phụ nữ về chính trị là một nội dung cơ bản trong các nội dung tư tưởng về giải phóng phụ nữ của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trước, trong và sau khi Đảng ra đời; từ trong kháng chiến đến khi hòa bình lập lại; từ trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng tiên phong về quyền tham chính của phụ nữ của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đóng góp vào công cuộc giải phóng dân tộc mà còn đặt nền móng cho một xã hội bình đẳng hơn, nơi mọi thành viên đều có thể tham gia vào các quá trình quyết định và quản lý quốc gia, đặc biệt là tạo điều kiện cho phụ nữ phát huy tài năng, trí tuệ, tình cảm của mình vào sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Bên cạnh đó tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền tham chính của phụ nữ đã và đang là kim chỉ nam cho sự phát triển các chính sách về bình đẳng giới và quyền tham chính của phụ nữ tại Việt Nam hiện nay. 

Thực trạng việc thực hiện quyền tham chính của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay

Thực hiện theo Di chúc, tâm nguyện và tư tưởng giải phóng phụ nữ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta đã và đang nỗ lực không ngừng để đảm bảo quyền lợi và sự tham gia toàn diện của phụ nữ trong mọi mặt của đời sống xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị, thông qua các quy định trong Hiến pháp, các quy phạm pháp luật và các chương trình hành động và kế hoạch quốc gia. Hiến pháp Việt Nam khẳng định nguyên tắc bình đẳng giữa các công dân, bao gồm bình đẳng giới, và nhấn mạnh quyền bình đẳng trong chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình là những ví dụ điển hình, cung cấp khung pháp lý để bảo vệ phụ nữ và thúc đẩy bình đẳng giới ở Việt Nam. Điều 11 Luật bình đẳng giới quy định bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị. Nghị quyết số 11/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 27/4/2007 cũng nhấn mạnh rằng, phấn đấu đến năm 2020, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp đạt từ 35% đến 40%16. Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2010 - 2020 coi việc nâng cao quyền năng chính trị cho phụ nữ là mục tiêu hàng đầu. Mục tiêu 1 của Chiến lược nêu rõ: Tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo, nhằm từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị, phấn đấu đạt tỷ lệ nữ tham gia các cấp ủy Đảng nhiệm kỳ 2016 - 2020 từ 25% trở lên; tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2015 từ 30% trở lên và nhiệm kỳ 2016 - 2020 trên 35%17. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ vào chính quyền các cấp và thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong việc nội luật hóa các công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, hỗ trợ quyền lãnh đạo và quản lý của phụ nữ, nhằm giảm khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị. 

Để bảo đảm quyền lãnh đạo, quản lý của phụ nữ được thực thi hiệu quả, Nhà nước xác định rằng bảo đảm bình đẳng giới trên các lĩnh vực là trách nhiệm của tất cả các cơ quan trong bộ máy nhà nước, với sự phối hợp đặc thù từ Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; Ủy ban Quốc gia tiến bộ phụ nữ Việt Nam, và các cơ quan Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đóng vai trò tư vấn, phối hợp, vận động, thúc đẩy, hỗ trợ và giám sát công tác bình đẳng giới ở các lĩnh vực và ngành, bao gồm cả lĩnh vực chính trị. Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị hiện nay bao gồm: bảo đảm tỷ lệ thích đáng nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới; bảo đảm tỷ lệ nữ giới thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà nước phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới. Theo đó, bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị tập trung chủ yếu vào hai biện pháp để gia tăng số lượng phụ nữ trong các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương đó là bầu cử và bổ nhiệm.

Tỷ lệ đại diện của nữ giới trong Quốc hội khá cao so với chuẩn khu vực. Tuy tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội giảm từ 27,31% (136/498) nhiệm kỳ khóa XI (2002-2007) xuống 25,76% (127/493) trong nhiệm kỳ khóa XII (2007-2011) và 24,4% (122/500) trong nhiệm kỳ khóa XIII (2011-2016), nhưng đến nhiệm kỳ khóa XIV (2016-2021), con số này đã tăng lên 27,01%18. Đặc biệt, nhiệm kỳ khoá XIV có 01 nữ Chủ tịch Quốc hội và 01 nữ Phó Chủ tịch Quốc hội, nhiệm kỳ khóa XV có 01 nữ Phó Chủ tịch Quốc hội. Tính đến tháng 12/2022: Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có lãnh đạo chủ chốt là nữ chiếm 15/30 cơ quan, đạt 50% và tăng 3,4% so với năm 2021. Trong đó: các bộ, cơ quan ngang bộ có nữ lãnh đạo chủ chốt là nữ là 13/22, đạt 59%, tăng 6% so với năm 2021; các cơ quan thuộc Chính phủ có có nữ lãnh đạo chủ chốt là nữ là 2/8, đạt 25%; có 03 nữ Bộ trưởng 01 Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ; 12 nữ Thứ trưởng và tương đương. Tỷ lệ Ủy ban nhân dân các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ (số liệu đầu nhiệm kỳ 2021-2025: cấp tỉnh là 37,70%, cấp huyện là 31,77%, cấp xã là 24,94%19. Các số liệu trên đây là sự ghi nhận cho nỗ lực đảm bảo quyền tham chính của phụ nữ ở Việt Nam. 

Những nữ sinh viên tiêu biểu trong lĩnh vực khoa học công nghệ nhận quà từ Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân. (Ảnh: DƯƠNG TRIỀU)

Một số khó khăn trong việc thực hiện quyền tham chính của phụ nữ ở Việt Nam

Thứ nhất, định kiến giới và vai trò giới trong gia đình, nhất là với đội ngũ nữ cán bộ lãnh đạo. 

Định kiến giới là nhận định của mọi người về những gì mà phụ nữ và nam giới có khả năng và các loại hoạt động mà họ có thể làm, địa vị xã hội mà họ đang có với tư cách họ là nam hay nữ. Hiện nay, định kiến giới luôn gắn cho người phụ nữ những đặc điểm như: cảm tính, rụt rè, bị động, thiếu quyết đoán… Những định kiến đó có thể dẫn đến nhận thức thiên lệch, đánh giá và nhận xét thiếu khách quan đối với phụ nữ tham gia chính trị, khiến xã hội chưa coi trọng năng lực của phụ nữ, từ đó hạn chế cơ hội phát triển của họ. Những định kiến này đến từ xã hội, cả trong gia đình, và còn xuất phát từ chính quan niệm, nhận thức của người phụ nữ về năng lực, khả năng tham chính của bản thân mình. Bên cạnh đó người phụ nữ còn bị ràng buộc bởi vai trò giới: đó là phải hài hòa việc nước, việc nhà để vừa có cơ hội phát triển cho bản thân, vừa giữ gìn hạnh phúc gia đình, nhằm thực hiện tốt vai trò, thiên chức của người phụ nữ trong gia đình và trách nhiệm công dân trong xã hội. Định kiến giới và vai trò giới đã ảnh hưởng tới khả năng tham chính và năng lực lãnh đạo của phụ nữ, khiến họ gặp khó khăn khi tham gia chính trường, ít được ủng hộ vào các vị trí lãnh đạo có tầm ảnh hưởng lớn.

Thứ hai, hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ còn có những hạn chế nhất định

Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam không chỉ là tổ chức chăm lo cho phụ nữ, giải quyết các vấn đề thiết thân của phụ nữ mà Hội còn tập trung đề xuất chính sách, tham gia xây dựng, phản biện xã hội, giám sát việc thực hiện các chính sách liên quan đến phụ nữ và bình đẳng giới, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ. Tuy Hội đã bám sát chức năng của mình, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của đất nước giao phó, đảm bảo nhu cầu, nguyện vọng của phụ nữ Việt Nam nhưng Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam vẫn còn có những hạn chế trong việc đảm bảo quyền tham chí của chị em phụ nữ. Việc tham gia xây dựng, phản biện xã hội và giám sát thực hiện luật pháp, chính sách về bình đẳng giới của Hội còn nhiều hạn chế, thiếu chủ động. Công tác tuyên truyền xóa bỏ định kiến giới đặc biệt trong lĩnh vực chính trị cho người dân đặc biệt cho chính bản thân hội viên phụ nữ của mình còn chưa đạt được hiệu quả cao. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, giới thiệu nguồn cán bộ nữ cho Đảng và hệ thống chính trị thiếu tính chiến lược nên hiệu quả chưa cao… 

Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh việc thực hiện quyền tham chính của phụ nữ Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Để đạt được sự đảm bảo thực hiện quyền chính trị của phụ nữ một cách đầy đủ, đòi hỏi trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, khi các thể chế, chiến lược, chính sách, chương trình phát triển và biện pháp quản lý được đề ra mang tính khả thi và hiệu quả. Đặt biệt là cần vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh về quyền tham chính của phụ nữ để đưa ra được những giải pháp thiết thực và có hiệu quả trong việc phụ nữ thụ hưởng các quyền chính trị của mình.

Thứ nhất, xóa bỏ định kiến giới trong lĩnh vực chính trị

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm khuyến khích và động viên phụ nữ học tập và nâng cao nhận thức, năng lực chính trị của bản thân, đồng thời kêu gọi mọi người nhìn nhận và đánh giá đúng vai trò khả năng của phụ nữ, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị. Vì vậy biện pháp cần thiết, trọng tâm là cần xóa bỏ định kiến giới và ràng buộc trách nhiệm giới của phụ nữ. Để thực hiện có hiệu quả xóa bỏ định kiến giới trong chính trị thì cần chú trọng nâng cao nhận thức của cấp ủy các cấp, trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, đơn vị trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ nữ; kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện phân biệt đối xử, định kiến trong việc đánh giá, tuyển chọn và đề bạt cán bộ nữ. Các cơ quan chức năng sẽ thực hiện các giải pháp đồng bộ và tích cực tuyên truyền về quyền chính trị của nữ giới để tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các cơ quan dân cử trong các nhiệm kỳ tiếp theo. Với những rào cản đối với việc thực hiện quyền chính trị của phụ nữ xuất phát từ định kiến xã hội, cần tiếp tục nâng cao nhận thức, quan điểm về công tác cán bộ nữ trong các cấp ủy đảng, chính quyền, các đoàn thể và quần chúng nhân dân.

Đồng thời cần phải nâng cao nhận thức về năng lực chính trị cho chính bản thân người phụ nữ bởi vì phụ nữ muốn đảm nhiệm các vị trí lãnh đạo, quản lý, cần phải luôn có ý thức nỗ lực phấn đấu vươn lên trong công việc. Cần chú trọng tuyên truyền đề nâng cao nhận thức của người dân, của các thành viên trong gia đình về vai trò, vị trí của phụ nữ trong lãnh đạo, quản lý từ đó giúp người dân nhận thức được quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của họ trong thực hiện bình đẳng giới và tiến bộ xã hội.

Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách thực hiện đảm bảo quyền tham chính của phụ nữ

Sinh thời, Bác Hồ luôn cẩn thận nhắc nhở các cấp lãnh đạo trong việc cất nhắc, quy hoạch phụ nữ vào hệ thống chính trị. Tiếp nối tư tưởng của Người, các cấp Đảng, chính quyền cần xây dựng và thực hiện quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và bố trí sử dụng cán bộ nữ trong quy hoạch tổng thể về đội ngũ cán bộ ở từng cấp, từng ngành, từng địa phương. Cần tăng cường chính sách thúc đẩy phụ nữ tham chính như: chính sách quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng, nghỉ hưu... cho phù hợp với đặc điểm nữ giới trong tham gia hoạt động xã hội. Đặc biệt, hoàn thiện chủ trương, chính sách về đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng và phát triển đội ngũ nữ cán bộ. Đây là khâu quan trọng và cần được thực hiện có tính chiến lược, khoa học, coi là kim chỉ nam cho mọi hoạt động. Công tác này đảm bảo tỷ lệ và cơ cấu cán bộ nữ trong quy hoạch cho tương ứng với tỷ lệ lao động nữ ở Việt Nam hiện nay; ảnh hưởng tới số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ nữ trong hệ thống chính trị.

Thứ ba, nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong việc đảm bảo quyền tham chính của phụ nữ

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhận thấy tầm quan trong trọng của một tổ chức đại diện cho tiếng nói của phụ nữu, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị. Chính vì vậy cần nâng cao vị thế và trách nhiệm của Hội Liên hiệp Phụ nữ, Ban Nữ công Công đoàn các cấp trong việc xây dựng và bảo vệ quyền lợi cho giới nữ, nhất là quyền tham chính của họ. Các cấp ủy đảng cần xây dựng quy chế, nhất thiết phải lấy ý kiến của Hội Liên hiệp Phụ nữ hoặc Ban Nữ công Công đoàn trong quá trình thực hiện công tác cán bộ liên quan đến nữ. Đồng thời tạo điều kiện cho các tổ chức này đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động, để tiếng nói của họ có trọng lượng và để việc chăm lo, giáo dục, bảo vệ quyền tham chính cho phụ nữ có hiệu quả.

Nguyễn Thị Như Hoa - Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh

_________
1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 15, tr.172.

2. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 13, tr.523.

3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 2, tr.315.

4. Xem Cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2018, tập 2, tr.188.

6, 7. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 2, tr.314, tr.314.

8. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 12, tr.706.

9. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 12, tr.420.

10. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 15, tr.617.

11. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 10, tr.537.

12. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 14, tr.158.

13. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 12, tr.511.

14. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 12, tr.640.

15. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 12, tr.639.

16. Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

17. Quyết định số 19/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 21/01/2002 phê duyệt Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010.

18. Xem: http://quochoi.vn/ tulieuquochoi/tulieu/baucuquochoi/

19. Xem Chính phủ, Báo cáo kết quả thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2022, 95/BC-CP.

Tài liệu tham khảo

1. Chính phủ (2023), Báo cáo kết quả thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2022, 95/BC-CP.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2; 10; 12; 13; 14; 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Tác giả: Tuấn Ngọc

Nguồn tin: tcnn.vn

Tổng số điểm của bài viết là: 180 trong 36 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 36 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây