Chính sách xã hội (CSXH) là hệ thống quan điểm, chủ trương, phương hướng và biện pháp được thể chế hoá bằng pháp luật của nhà nước để giải quyết những vấn đề xã hội đặt ra từ thực tiễn trong một thời gian và không gian nhất định, trước hết là những vấn đề xã hội bức xúc trên cơ sở đảm bảo quyền con người nhằm không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không một ai bị để lại phía sau, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững đất nước.
PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI THEO TINH THẦN ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG
Ở Việt Nam, CSXH được hiểu là đường lối và hành động của Đảng và Nhà nước để giải quyết những vấn đề xã hội nhằm mục tiêu nâng cao phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, phát triển xã hội và phát triển con người hướng đến đảm bảo sự hài lòng, hạnh phúc cho con người. Theo nghĩa hẹp, CSXH được hiểu theo nghĩa hẹp, bao gồm chính sách đối với người có công và các trụ cột cơ bản của hệ thống chính an sinh xã hội ở Việt Nam (chính sách giảm nghèo bền vững; chính sách đào tạo nghề, lao động việc làm; chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; chính sách bảo trợ xã hội; các dịch vụ xã hội cơ bản/tối thiểu: nhà ở, nước sạch, y tế, giáo dục và thông tin).
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII thể hiện bước tiến mới trong sự phát triển tư duy lý luận về CSXH. Đó là việc nhấn mạnh vai trò và các mối quan hệ cơ bản, toàn diện: giữa CSXH và định hướng chủ nghĩa xã hội; giữa CSXH với quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và nâng cao chất lượng sống, chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam. Đảng ta khẳng định: Dự báo đúng biến đổi cơ cấu xã hội ở nước ta trong những năm tới, xây dựng CSXH và quản lý phát triển xã hội phù hợp(1). Đồng thời, “nhận thức đầy đủ và đảm bảo định hướng chủ nghĩa xã hội trong các CSXH. Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong các CSXH, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người. Triển khai đồng bộ, toàn diện các mục tiêu kinh tế, tiến bộ, công bằng xã hội và môi trường, trên cơ sở đó, đổi mới phân bổ nguồn lực hợp lý để nâng cao hiệu quả phát triển xã hội”(2). Cũng như, “thực hiện tốt CSXH, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam”(3).
Từ thành công của Việt Nam trong ứng phó với đại dịch Covid-19 cho thấy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, kịp thời, đúng hướng, toàn diện, hiệu quả, chủ động, linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế và chịu trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngay từ đầu và suốt trong thời gian chống dịch, Việt Nam đã có những chỉ thị, quy định kịp thời từ Trung ương đến địa phương với nhiều biện pháp toàn diện và triệt để. Để ứng phó với đại dịch Covid-19- tình huống bất thường, Viêt Nam đã thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp, hệ thống công cụ khác nhau, trong đó có việc ban hành và tổ chức thực hiện CSXH. Tuy nhiên, trong cuộc khủng hoảng đại dịch Covid-19, hệ thống CSXH và an sinh xã hội (ASXH) của nước ta đã bộc lộ rõ sự bất cập, thể hiện bằng phản ứng còn chậm và thủ tục hành chính rườm rà, xa thực tế trong khâu tổ chức thực hiện chính sách. Nhiều đối tượng yếu thế, đối tượng gặp khó khăn do đại dịch cần được hỗ trợ nhưng không nằm trong danh sách nên đã không thể ứng phó và ứng phó kịp thời với những tác động bất lợi của đại dịch đến việc làm, thu nhập, sinh kế và thậm chí tính mạng, cuộc sống. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đặt ra yêu cầu: Dự báo đúng biến đổi cơ cấu xã hội ở nước ta trong những năm tới, xây dựng CSXH và quản lý phát triển xã hội phù hợp(4).
Từ thực tiễn ứng phó với đại dịch Covid- 19 có thể nhận thấy, mô hình CSXH của nước ta cần tiếp tục quán triệt và thể hiện mục tiêu phát triển vì con người, lấy người dân làm trung tâm. Cần bảo đảm để mọi người dân có thể tiếp cận và thụ hưởng CSXH góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Trong tình hình mới, việc tăng cường hoàn thiện và phát triển hệ thống CSXH đang trở thành một đòi hỏi bức thiết nhằm góp phần thực hiện mục tiêu phát triển nhanh, hài hòa và bền vững đất nước. Do đó, yêu cầu cấp thiết đặt ra là hiện nay là cần phải có tư duy mới, cách làm mới, mô hình mới trong phát triển hệ thống CSXH phù hợp với mục tiêu, yêu cầu và điều kiện phát triển của đất nước.
MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI TRONG BỐI CẢNH MỚI
Thứ nhất, phát triển hệ thống chính sách xã hội góp phần đảm bảo mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: Mục tiêu phấn đấu đến năm 2045 trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, đảm bảo định hướng chủ nghĩa xã hội. Do đó, một trong những định hướng hàng đầu trong phát triển hệ thống CSXH phù hợp với mô hình mục tiêu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới. Hay nói cách khác, phải từng bước hình thành và phát triển mô hình hệ thống CSXH định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh mới. Trong đó, cần tập trung hướng đến các tiêu chí và mục tiêu: 1) Đảm bảo sự lãnh đạo và quản lý toàn diện, kịp thời, tập trung, hiệu quả của Đảng và Nhà nước Việt Nam; 2) Trọng tâm của hệ thống CSXH là chuyển từ số lượng sang chất lượng; từng bước thực hiện tư duy và mô hình quản lý phát triển xã hội đối với hệ thống CSXH; 3) Đảm bảo mối quan hệ và phát huy tối đa vai trò của Nhà nước, thị trường và xã hội; 4) Có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng và hiệu quả với hệ thống chính sách kinh tế; 5) Đảm bảo tính dự báo xã hội cao, chủ động, phù hợp và thích ứng linh hoạt với bối cảnh xã hội biến đổi nhanh, bất định, khó lường và nhu cầu ngày cang đa dạng; 6) Bảo đảm tính ưu việt, tiến bộ của CSXH ở Việt Nam so với các nước trên thế giới, kể cả những nước tư bản phát triển; 7) Bảo đảm sự cân bằng, đồng thời hướng tới thực hiện các mục tiêu cốt lõi: tăng trưởng kinh tế, thực hiện công bằng xã hội và quản lý, giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội; 8) Bảo đảm nguyên tắc công bằng, công khai và minh bạch trong xây dựng và tổ chức thực hiện các CSXH; 9) Xây dựng CSXH phải dựa trên đánh giá, khoa học, đảm bảo tính kế thừa, liên tục, xuyên suốt, bảo đảm tính hội nhập quốc tế, phù hợp thực tiễn, vừa làm vừa tổng kết, nhất là vấn đề mới; 10) Phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và truyền thống tốt đẹp tương thân, tương ái của dân tộc Việt Nam; 11) Tích cực đẩy mạnh hợp tác quốc tế để có thêm kinh nghiệm, nguồn lực và cơ sở tham khảo trong hoạch định chính sách phù hợp với xu thế hội nhập; 12) Góp phần quan trọng hiện thực hóa mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Do đó, trong xác định và kiên định thực hiện mục tiêu cốt lõi trong xây dựng, phát triển hệ thống CSXH của Việt Nam từ nay đến năm 2045, cần hướng đến toàn dân, bao trùm và toàn diện; đáp ứng các nhu cầu ASXH và dịch vụ xã hội cho nhân dân, tạo cơ hội phát triển toàn diện cho mọi người dân và không để ai bị bỏ lại phía sau; hướng đến đảm bảo sự hài lòng, hạnh phúc cho mọi người dân; tạo nền tảng xây dựng xã hội tiến bộ, công bằng, bình đẳng, nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau; đáp ứng mục tiêu trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, đảm bảo định hướng chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, phát triển hệ thống chính sách xã hội linh hoạt, bền vững, hiện đại, hội nhập và hiệu quả. Thống nhất nhận thức và hành động nhằm hướng đến phát triển hệ thống CSXH Việt Nam linh hoạt, bền vững, hiện đại, hội nhập và hiệu quả. Cụ thể là:
Hệ thống CSXH linh hoạt là: (1) Hoạt động theo các quy luật khách quan nhưng không tuyệt đối hóa sự điều tiết bởi “bàn tay vô hình”, mà có sự điều tiết của Nhà nước để phòng ngừa, giải quyết, ứng phó kịp thời với biến động của thực tiễn và nhu cầu của các giai tầng xã hội trong điều kiện bình thường và cả tình huống bất thường (biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư…; (2) Đa dạng các hình thức kết nối cung - cầu của hệ thống CSXH; sử dụng hợp lý, hiệu quả các nguồn lực, sự tham gia chủ động và có trách nhiệm của các chủ thể khác nhau trong xã hội. Đảm bảo sự ổn định, phát triển của hệ thống CSXH một cách linh hoạt, thích ứng, nhằm góp phần huy động thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; (3) Hệ thống CSXH từng bước thích ứng linh hoạt với các biến động, nhu cầu ngày càng cao của các nhóm giai tầng xã hội.
Hệ thống CSXH bền vững là: (1) Các nhóm xã hội, đối tượng tham gia và thụ hưởng có cơ hội bình đẳng, thuận lợi trong tiếp cận, dựa căn bản quyền về ASXH; (2) Thể chế chính sách khuyến khích sự phát triển, phát huy yếu tố con người, đầu tư và phát triển nguồn vốn con người, chia sẻ công bằng các thành quả của tăng trưởng kinh tế và bảo vệ cho các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương thông qua hệ thống CSXH.
Hệ thống CSXH hiện đại là: (1) Vận hành hiệu quả theo các quy luật phát triển của xã hội. Xã hội càng hiện đại, càng phát triển càng có nguy cơ nảy sinh, gia tăng nhiều vấn đề xã hội, phức tạp; do đó càng đặt ra nhu cầu phát triển hoàn thiện và phát triển hệ thống CSXH. (2) Các thiết chế đồng bộ đảm bảo phát huy hiệu quả vai trò, năng lực, sự tham gia một cách chủ động và trách nhiệm của các chủ thể liên quan; (3) Phát triển hệ thống CSXH Việt Nam nhằm đạt tới một hệ thống CSXH có khả năng vận hành đồng bộ, thông suốt và hiệu quả; cùng đồng hành với mục tiêu phát triển của đất nước vào năm 2045.
Hệ thống CSXH hội nhập là: (1) Có sự kết nối, liên thông, đồng bộ, không rào cản, chồng chéo giữa các chính sách, giữa các chủ thể, giữa các phương thức tác động, huy động nguồn lực trong nước và với ngoài nước; (2) Hệ thống CSXH phù hợp với các tiêu chuẩn của các nước phát triển; nhưng vẫn thể hiện được sự tiến bộ, công bằng bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Hệ thống CSXH hiệu quả là: (1) Hệ thống CSXH phải tuân thủ nguyên tắc cơ bản và quyền về ASXH theo Hiến pháp; (2) Phân bổ hợp lý, khai thác và sử dụng tối ưu nguồn các nguồn lực hướng đến việc giải quyết, quản lý iệu quả những vấn đề xã hội trong tiến trình phát tiển của đất nước, góp phần thực hiện hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Phát triển hệ thống CSXH linh hoạt, bền vững, hiện đại, hội nhập và hiệu quả, phù hợp với đặc điểm của từng vùng, từng địa phương làm cơ sở, động lực phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhà nước giữ vai trò kiến tạo phát triển hệ thống CSXH thông qua việc hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của cơ chế chính sách, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật...(5)
Thứ ba, phát triển hệ thống chính sách xã hội có khả năng phó với tình huống bất thường. Để đảm hệ thống CSXH phù hợp với bối cảnh có thể xuất hiện nhiều trong tình huống bất thường. Điều này đặt ra yêu cầu khẩn trương xây dựng, hoàn thiện hệ thống các quy phạm pháp luật về tình huống bất thường một cách đồng bộ; và được bắt đầu từ khung thể chế trong Hiến pháp, luật và các văn bản quy phạm hành chính. Nghiên cứu, ban hành và thực hiện một hệ thống pháp luật quy định về trách nhiệm và năng lực quản lý hệ thống CSXH trong tình huống bất thường. Do đó, cần nghiên cứu xây dựng phát triển cơ quan, tổ chức chuyên trách và chuyên nghiệp có chức năng ứng phó với tình huống bất thường; đầu tư thỏa đáng nguồn lực, thiết bị công nghệ cho hoạt động ứng phó với tình huống bất thường.
Cần phải thiết lập đúng mục tiêu của CSXH trong tình huống bất thường. Tình huống bất thường luôn mang những hậu quả, tiềm ẩn những hậu quả, vì vậy, cần phải xác định được những mục tiêu ứng phó cụ thể, các mục tiêu lộ trình và mục tiêu cuối cùng của việc ban hành và tổ chức thực hiện CSXH. Trong việc thiết lập mục tiêu, điều quan trọng là xác định được các ưu tiên đảm bảo nhu cầu tối thiểu, thiết yếu của các nhóm giai tầng xã hội trong tình huống bất thường, lấy sự an toàn của người dân là mục tiêu cao nhất, sự ổn định, trật tự xã hội là trọng tâm, sự bền vững của chế độ là cốt lõi.
Các giải pháp ban hành và tổ chức thực hiện CSXH trong tình huống bất thường luôn đòi hỏi sự khẩn trương, nghiêm túc, trách nhiệm, kịp thời, linh hoạt… với tình huống bất thường. Ứng phó với những hậu quả của tình huống bất thường cần sức mạnh tổng hợp, không thể là sức mạnh đơn lẻ hay nỗ lực đơn độc của một hoặc một nhóm chủ thể. CSXH trong tình huống bất thường luôn phải tính đến cả trước mắt và lâu dài; trong tình huống bất thường và sau tình huống bất thường.
Tham gia vào quá trình ban hành và tổ chức thực hiện CSXH trong tình huống bất thường là trách nhiệm của toàn xã hội. Do đó, cần phải huy động sự tham gia của người dân trong ứng phó với tình huống bất thường, trong giải quyết những vấn đề phát sinh do tình huống bất thường gây ra. Các chủ thể xã hội: người dân, công đồng, tổ chức xã hội, doanh nghiệp…cùng với các cơ quan chức năng thuộc hệ thống chính trị luôn phải là chủ thể có xu hướng chủ động cùng đồng hành với các kịch bản, mọi giải pháp ứng phó với tình huống bất thường, cùng vượt qua và khắc phục tình huống bất thường, đảm bảo cho sự thành công và hiệu quả của CSXH trong tình huống bất thường.
Minh bạch hóa thông tin trong ban hành và tổ chức thực hiện CSXH trong tình huống bất thường là một vấn đề có tính cốt lõi. Điều này sẽ tránh được hậu quả của tình huống bất thường, không để khoảng trống thông tin để người dân hoang mang và các thế lực thù địch âm mưu phá hoại có cơ hội thực hiện. Phải chú trọng vào trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và cá nhân, nhất là người đứng đầu của các cơ quan nhà nước suốt quá trình ban hành và tổ chức thực hiện CSXH trong tình huống bất thường. Do đó, cần có cơ chế chia sẻ thông tin trong quá trình ứng phó, tạo ra sự phối hợp chặt chẽ của các chủ thể có trách nhiệm trong ứng phó với tình huống bất thường.
Trong tình huống bất thường, CSXH phải được chấp hành và thực hiện thống nhất. Mọi cơ quan nhà nước, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, công chức đều phải chấp hành nghiêm pháp luật. Các quy định hướng dẫn về thực hiện CSXH của cơ quan quản lý nhà nước phải được ban hành trên cơ sở luận cứ khoa học, có tính khả thi cao. Mọi quyết định quản lý hành chính nhà nước phải bảo đảm tính chính trị, tính hợp pháp và hợp lý. Thực tiễn cho thấy, nếu quyết định đúng đắn những vấn đề liên quan đến các hoạt động xã hội trong những tình huống bất thường thì có thể tạo ra được sự chuyển biến tích cực; ngược lại, nếu quyết định không đúng sẽ càng làm tình hình thêm trầm trọng. Vì thế, việc ban hành các chế độ chính sách, khen thưởng, xử phạt cần được cân nhắc kỹ lưỡng dựa trên cơ sở của pháp luật, căn cứ vào thực tiễn, phải thăm dò dư luận xã hội, tham khảo ý kiến của chuyên gia để tránh những sai lầm không đáng có. Các văn bản hướng dẫn của cơ quan quản lý nhà nước cấp dưới không được trái với các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Nghiêm cấm các ngành, các địa phương cá nhân, tổ chức đặt ra các luật lệ trái với hệ thống pháp luật về CSXH trong các tình huống bất thường. Mọi hành vi vi phạm trong tổ chức thực hiện CSXH đều phải được phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời; nhưng cũng phải tính đến động cơ, bối cảnh cụ thể.Trong bối cảnh tình huống bất thường, các vấn đề xã hội mà CSXH cần phải giải quyết rất nhiều trong khi nguồn lực của chúng ta còn eo hẹp, thời gian cấp bách, do đó vấn đề cần xác định ưu tiên giải quyết cần đúng và trúng, có tác động lan tỏa. Tăng cường tính linh hoạt trong phản ứng chính sách, tiếp cận đối tượng chính sách, đặc biệt là những người dễ bị tổn thương, lao động tự do, lao động di cư, người tàn tật, người già neo đơn, trẻ em… Giảm thiểu các thủ tục hành chính rườm rà gây khó cho đối tượng chính sách, xóa bỏ cơ chế “xin - cho”, hành chính, mệnh lệnh, cửa quyền.
Thứ tư, từng bước thực áp dụng tư duy, phương thức và mô hình quản lý phát triển hệ thống chính sách xã hội. Bên cạnh tư duy, phương thức và mô hình quản lý nhà nước về CSXH, cần từng bước thực hiện quản lý phát triển xã hội trong phát triển hệ thống CSXH đáp ứng được những vấn đề đặt ra của quá trình phát triển đất nước trong bối cảnh mới. Theo đó, trong phát triển hệ thống CSXH ở Việt Nam cần quan tâm đến tư duy, phương thức và mô hình quản lý phát triển xã hội trên các khía cạnh sau:
Một là, xây dựng và thực hiện hiệu quả các chương trình mục tiêu bảo đảm ASXH giai đoạn 2021 - 2030. Đây là chương trình tổng thể cần được xây dựng trên cơ sở tích hợp các chương trình hiện nay về giảm nghèo bền vững, việc làm, phát triển kỹ năng nghề nghiệp, bảo trợ xã hội... Nhà nước bảo đảm nguồn lực thực hiện các chính sách, chương trình nêu trên và huy động sự đóng góp, tham gia của toàn xã hội.
Hai là, quản lý phát triển kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động và nhu cầu việc làm bền vững của người lao động (NLĐ). Quản lý phát triển kỹ năng nghề nghiệp của nguồn nhân lực thông qua phát triển hệ thống giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các cấp trình độ và giữa các phương thức đào tạo, dạy nghề; gắn giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp nhằm bảo đảm đào tạo, giáo dục nghề nghiệp theo nhu cầu của xã hội, của thị trường lao động/doanh nghiệp và nhu cầu việc làm của NLĐ; chuyển mạnh quá trình đào tạo, giáo dục nghề nghiệp chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển năng lực) toàn diện, theo tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia, tiếp cận tiêu chuẩn kỹ năng nghề khu vực và thế giới...
Ba là, quản lý phát triển việc làm bền vững, tăng thu nhập cho NLĐ và giảm nghèo bền vững. Quản lý phát triển việc làm bền vững, tăng thu nhập cho NLĐ nhằm bảo đảm cơ hội việc làm bền vững, có hiệu quả và thu nhập công bằng giữa nữ giới và nam giới; bảo đảm an toàn lao động tại nơi làm việc và bảo trợ xã hội cho gia đình; bảo đảm các quyền của NLĐ. Quản lý phát triển thị trường lao động đồng bộ trên phạm vi cả nước để liên thông cung - cầu lao động; hình thành và phát triển nhanh thị trường lao động trình độ cao; phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng của thị trường lao động (dịch vụ việc làm, cơ sở dữ liệu thông tin, dự báo thị trường lao động...). Xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ. Thực hiện công bằng trong quan hệ phân phối tiền lương và thu nhập, gắn với năng suất lao động, hiệu quả công việc. Đa dạng hóa sinh kế, tạo đủ việc làm tiến tới việc làm bền vững, có thu nhập ngày càng cao cho NLĐ, đặc biệt là những người yếu thế, dễ bị tổn thương; bảo đảm cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản cho người nghèo, hộ nghèo, tập trung vào lõi nghèo...
Bốn là, quản lý phát triển BHXH theo mô hình BHXH đa tầng, đa dạng, linh hoạt, hiện đại, có tính chia sẻ và hội nhập quốc tế để BHXH trở thành trụ cột chính của hệ thống ASXH trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, bao gồm: BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện, bảo hiểm hưu trí bổ sung - chế độ hưu trí tự nguyện theo nguyên tắc thị trường, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; nâng cao ý thức, trách nhiệm của NLĐ đối với việc tự bảo đảm an sinh cho mình. Đối với BHXH bắt buộc, thực hiện điều chỉnh các thông số đóng - hưởng; sửa đổi quy định về điều kiện thời gian tham gia BHXH tối thiểu để hưởng chế độ hưu trí theo hướng linh hoạt; sửa đổi các quy định về mức đóng, căn cứ đóng BHXH để đạt mục tiêu mở rộng diện bao phủ BHXH; điều chỉnh tỷ lệ tích lũy để đạt tỷ lệ hưởng lương hưu tối đa phù hợp với thông lệ quốc tế; thực hiện điều chỉnh lương hưu độc lập tương đối trong mối tương quan với tiền lương của người đang làm việc, thay đổi cách thức điều chỉnh lương hưu theo hướng chia sẻ.
Năm là, quản lý phát triển trợ giúp xã hội nhằm ổn định đời sống và hòa nhập xã hội cho các đối tượng bảo trợ xã hội. Theo đó, cần tập trung xây dựng mô hình hệ thống trợ giúp xã hội đa tầng, tiên tiến, hiệu quả, theo hướng đa dạng, toàn diện cả vật chất và tinh thần, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân; bảo đảm người dân được hỗ trợ kịp thời từ Nhà nước, các tổ chức và cộng đồng khi gặp rủi ro; phát triển mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội theo quy hoạch đáp ứng nhu cầu của đối tượng cần chăm sóc xã hội; xây dựng mô hình cơ sở cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội toàn diện. Bảo đảm trợ giúp khẩn cấp dựa trên mức độ thiệt hại, tổn thương, hoàn cảnh cụ thể và khả năng khắc phục rủi ro của cá nhân, hộ gia đình bị ảnh hưởng bởi các tình huống bất thường với những mức độ khác nhau. Hoàn thiện hệ thống trợ giúp xã hội theo hướng toàn diện, bao trùm và bền vững để ứng phó với những thách thức bất ngờ có thể xảy ra. Thiết kế các chương trình trợ giúp theo hướng linh hoạt, điều chỉnh kịp thời, đáp ứng nhu cầu của người bị ảnh hưởng do thiên tai, thảm họa; hỗ trợ kịp thời người yếu thế, thiệt thòi khắc phục rủi ro; tăng cường khả năng ứng phó giảm thiệt hại do rủi ro.
Sáu là, quản lý phát triển công tác xã hội chuyên nghiệp, hoạt động cung cấp dịch vụ xã hội nói chung, dịch vụ ASXH, chăm sóc xã hội cho đối tượng bảo trợ xã hội nói riêng. Phát triển các cơ sở công tác xã hội công lập và ngoài công lập theo quy định pháp luật và quy hoạch trên cơ sở xây dựng Dự án Luật Công tác xã hội. Trong đó, chú ý đến quy hoạch phát triển; mô hình cơ sở công tác xã hội phù hợp với cung cấp dịch vụ công về ASXH; phát triển nhân viên công tác xã hội chuyên nghiệp đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người dân và phân bố hợp lý trên các vùng; thực hiện cơ chế hoạt động tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong cung cấp dịch vụ công tác xã hội(6).
Thứ năm, phát triển hệ thống chính sách xã hội dựa trên nền tảng vai trò và mối quan hệ của nhà nước, thị trường và xã hội. Theo đó, cần thực hiện và đảm bảo các điều kiện sau đây:
Một là, thống nhất trong nhận thức, tư duy và hành động của hệ thống chính trị và hệ thống xã hội về xử lý mối quan hệ và phát huy vai trò của Nhà nước, thị trường và xã hội trong phát triển hệ thống CSXH; tức là tìm ra mức độ, nội dung, liều lượng gắn kết, tác động giữa ba thành tố để bảo đảm phát triển hệ thống CSXH bền vững. Việc xử lý mối quan hệ này có vai trò quan trọng của Nhà nước, thực hiện thông qua việc nhận diện bản chất, mức độ của mối quan hệ và từ đó đưa ra các cơ chế, chính sách, giải pháp xử lý mối quan hệ này một cách phù hợp, đúng đắn. Cụ thể là: 1) Giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội phù hợp với các đặc điểm, yêu cầu phát triển hệ thống CSXH của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; 2) Giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trên cơ sở phát huy các chức năng và tiềm năng, lợi thế, đồng thời hạn chế những khuyết tật vốn có của từng khu vực, chủ thể trong phát triển hệ thống CSXH của đất nước; 3) Giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội gắn liền với hoàn thiện đồng bộ các thể chế tổ chức nhà nước, thể chế kinh tế, thể chế xã hội; 4) Xác định sự phối hợp giữa Nhà nước, thị trường và xã hội là xu hướng khách quan trong phát triển hệ thống CSXH hiện đại.
Hai là, xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển hệ thống CSXH với sự thay đổi vai trò và chức năng của các chủ thể, với trọng tâm là xác định đúng vai trò của Nhà nước, của thị trường - cơ chế thị trường, và xã hội; trên cơ sở đó, xây dựng cơ chế vận hành đồng bộ đảm bảo phát huy và kết hợp hiệu quả những mặt mạnh của Nhà nước với những mặt tích cực của cơ chế thị trường, vai trò tham gia tích cực, chủ động, trách nhiệm, sáng tạo của các chủ thể trong xã hội; đồng thời hạn chế được những bất cập, khiếm khuyết của Nhà nước, cơ chế thị trường, của các chủ thể trong xã hội, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hệ thống CSXH trong giai đoạn mới. Đẩy mạnh quá trình thể chế hóa vai trò nhà nước, thị trường và xã hội, đồng thời hình thành cơ chế tương tác hiệu quả giữa các thực thể này. Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý để phát huy hiệu quả vai trò của thành tố “chủ thể xã hội” trong mối quan hệ với Nhà nước và thị trường. Tạo lập đầy đủ cơ chế bảo đảm vai trò liên kết, phối hợp hoạt động để giải quyết những vấn đề phát sinh giữa các thành viên,... bảo đảm thực hiện chức năng phản biện luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước, giám sát các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực thi pháp luật. Từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ trong hoạch định và tổ chức thực thực hiện hệ thống CSXH, để có thể nắm bắt được chính xác các vấn đề của xã hội, đưa ra được các chính sách phù hợp, đúng đắn, tạo điều kiện phát huy vai trò của thị trường và xã hội tham gia phát triển hệ thống CSXH. Xây dựng bộ máy quản lý tinh gọn, phân cấp, trao quyền, xã hội hóa có chọn lọc nhiều lĩnh vực CSXH, thúc đẩy dân chủ ở cơ sở nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của quản lý nhà nước và phát triển hệ thống CSXH. Phát huy vai trò và sự chủ động tham gia của người dân, các tổ chức xã hội trong quá trình quản lý nhà nước và phát triển hệ thống CSXH.
Ba là, hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước đối với các hội, tổ chức phi chính phủ. Hệ thống thể chế, pháp luật và quản lý cần tạo ra khuôn khổ cho các tổ chức xã hội tham gia tư vấn, giám định và phản biện các chính sách xã hội kịp thời, hiệu quả hơn. Đồng thời, có khả năng đứng ra cung ứng một số dịch vụ xã hội phi lợi nhuận nhận ủy quyền từ nhà nước; bảo vệ quyền lợi của các nhóm thiểu số, yếu thế trong xã hội trong thụ hưởng chính sách trước các nguy cơ, thách thức bởi “thất bại” của thị trường.
Bốn là, để quá trình áp dụng cơ chế thị trường trong thực thi hệ thống CSXH thành công cần phát huy tối đa trách nhiệm của Nhà nước và phát huy vai trò của “chủ thể xã hội. Do đó, cần tập trung xác định, nhận thức lại rõ ràng và đầy đủ hơn chức năng của Nhà nước để giải quyết tốt các vấn đề xã hội; phát huy vai trò của các tổ chức xã hội nhằm bổ sung cho giới hạn của Nhà nước và hạn chế “khuyết tật” của thị trường; dựa trên hệ thống giá trị xã hội công bằng, bình đẳng, phúc lợi cho người dân…, bởi đó chính là những giá trị chung và là cơ sở cho hợp tác, đối tác giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong hoạch định và thực hiện hệ thống CSXH hiệu quả.
Năm là, chủ thể cốt yếu có chức năng nhiệm vụ xây dựng thể chế cũng như điều hành thực thi hệ thống CSXH chính là đội ngũ cán bộ, công chức. Do vậy chất lượng, năng lực, tinh thần trách nhiệm... của đội ngũ cán bộ công chức có vai trò rất quan trọng trong bảo đảm cho mối quan hệ nhà nước -thị trường - xã hội được xử lý hài hòa trong quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện hệ thống CSXH. Đặc biệt, đội ngũ cán bộ công chức, các cơ quan liên quan cần tránh giáo điều, bảo thủ, chủ quan, duy ý chí trong việc giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước với thị trường và xã hội thông qua việc thường xuyên lắng nghe, chịu sự giám sát, phản biện của các đoàn thể, nhân dân đối với quá trình phát triển của hệ thống CSXH.
Sáu là, thúc đẩy tư duy và hành động chủ động, kịp thời nhằm giải quyết mâu thuẫn trong sự phát triển không tương thích giữa 3 thành tố Nhà nước, thị trường và xã hội trong hoạch định và tổ chức thực hiện hệ thống CSXH. Phát huy vai trò của 3 thành tố tốt nhất khi bản thân chúng có sự phát triển hoàn thiện, nhà nước phải mạnh, thị trường phát triển và xã hội cũng được phát triển tương thích. Bảo đảm trách nhiệm và lợi ích hài hòa giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong quá trình giải quyết cụ thể mối quan hệ giữa các thành tố nhằm khai thác được sức mạnh tổng hợp các nguồn lực, từ nguồn lực nhà nước, nguồn lực thị trường và nguồn lực trong xã hội trong phát triển hệ thống CSXH(7).
TS. Đỗ Văn Quân - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
ThS. Nguyễn Hữu Tài - Trường Đại học Chính trị, Bộ Quốc phòng
_______________
(1) (2) (3) (4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 20221, t.I, tr.148, 40, 63, 148.
(5) Bùi Sĩ Lợi: Phát triển thị trường lao động linh hoạt, bền vững, hiện đại hội nhập và hiệu quả, Diễn đàn kinh tế - xã hội Việt Nam 2022.
(6) Nguyễn Hữu Dũng: Quản lý phát triển an sinh xã hội bền vững giai đoạn 2021-2030, Tạp chí Cộng sản điện tử.
(7) Đỗ Văn Quân: Phát huy vai trò của Nhà nước, thị trường và xã hội trong phát triển hệ thống chính sách xã hội ở Việt Nam, Tạp chí Lý luận chính trị, số 4/2023.
Tác giả: Tô Ngân
Nguồn tin: tuyengiao.vn
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn