Các giá trị văn hóa truyền thống được giữ gìn, phát huy, kết hợp tốt hơn với văn hóa đương đại. Văn hóa, văn nghệ dân gian các dân tộc được quan tâm sưu tầm, phổ biến. Đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ người dân tộc thiểu số tăng về số lượng và nâng dần về chất lượng. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân được bảo vệ và bảo đảm trên thực tế. Hoạt động văn hóa từng bước thích ứng dần với cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế.
I. Chủ trương nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam về sự gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế đồng bộ, hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
Ngay từ những ngày đầu đất nước mới giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh:“ Trong cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý, cũng phải coi là quan trong ngang nhau: Chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”[2], tư tưởng này xuất phát từ mục tiêu xây dựng chế độ xã hội mới hướng tới người dân, đem lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho người dân. Muốn vậy, mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là làm sao Việt Nam phải phát triển, sánh vai với các “ Cường quốc năm châu”, đó là cơ sở để dân giầu, nước mạnh. Bên cạnh đó, sự giầu có của đất nước không phải là sự hy sinh quyền lợi của nhóm người này, tập trung giầu có cho bộ phận khác trong xã hội, mà phải đảm bảo sự cộng bằng xã hội, công bằng về cơ hội đóng góp, hưởng thụ và cơ hội phát triển, hoàn toàn không phải là sự cào bằng. Để đạt được mục tiêu đó, trong lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng chủ trương, chính sách và tổ chức thực hiện, phải nhất quán gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế đồng bộ, hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Việt Nam là quốc gia có điểm xuất phát thấp về trình độ phát triển kinh tế, lại trải qua 30 năm kháng chiến giành độc lập, chiến tranh tàn phá. Mặc dù vậy, tùy theo điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng giai đoạn, tư tưởng này vẫn được Đảng, Nhà nước Việt Nam nhất quán, kiên trì thực hiện, cụ thể hóa trong nội dung của hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, không ngừng hoàn thiện cả về quan điểm, cụ thể hóa theo điều kiện của đất nước, tiếp thu thành tựu, tinh hoa của nhân loại. Ngay sau khi đất nước thống nhất vào năm 1975, trong 10 năm đầu, giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, gắn kết với phát triển văn hóa, thực hiện công bằng xã hội theo mô hình cũ, kế hoạch tập trung, bao cấp đã có nhiều bài học quý được rút ra, là phải tôn trọng quy luật khách quan; nóng vội, chủ quan duy ý chí là thất bại. Đại hội đại biểu lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện bước ngoặt trong đổi mới tư duy về vấn đề này. Từ nhận thức: Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế, coi tăng trưởng kinh tế là cơ sở để thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, Rằng: “Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người: điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hoá, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc… thể hiện đầy đủ trong thực tế quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội”[1], và nhấn mạnh: “Cần có chính sách xã hội cơ bản, lâu dài và xác định những nhiệm vụ, mục tiêu phù hợp với yêu cầu, khả năng trong chặng đường đầu tiên. Đó là một bước tiến mới trong nhận thức về chính sách xã hội của Đảng”.[2]
Đại hội VII chỉ rõ: “ Trong quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội, cùng với việc xây dựng và phát triển nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phải xây dựng và phát triển một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”[3], rằng: “ Vai trò to lớn của văn hóa là một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội, đồng thời là mục tiêu trong xây dựng xã hội mới”[4].Cương lĩnh trong thời kỳ quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ban hành năm 1991( Cương lĩnh 1991), nhấn mạnh nội dung của mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, Rằng: “Kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài”. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ, khóa VII (tháng 1 năm 1994), mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định rõ ràng hơn, yêu cầu tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Đến Đại hội VIII, nhận thức về mối quan hệ này tiếp tục được hoàn thiện: “Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. Cho đến Đại hội IX: “Tăng trưởng kinh tế gắn với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển” và khẳng định: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”[5]. Sự hoàn thiện về nhận thức và tính nhất quán về kết hợp giữa kinh tế với văn hóa và xã hội tiếp tục được duy trì, Đại hội X Đảng Cộng sản Việt Nam, đã thể hiện sâu sắc hơn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, coi đây là một trong những nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa là: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục... giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội”[6]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) ở Đại hội XI, Đảng Cộng sản Việt Nam một lần nữa nhấn mạnh: “Kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách; phát triển hài hòa đời sống vật chất và đời sống tinh thần”[7]. Cùng với đó là hàng loạt các nghị quyết về trí thức, giáo dục đào tạo, nông nghiệp, nông dân, nông thôn.. Đặc biệt là Nghị quyết 33/NQ-TW, ngày 9/6/2014 về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, khẳng định: “ Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân- thiện- mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt nam tiếp tục hoàn thiện những vấn đề này, nêu rõ: “Gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân”[8]. Đại hội XIII của Đảng xác định định hướng phát triển tiếp tục nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ lớn “Giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”[9] và nhấn mạnh: “... Gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”.
Quan điểm trên của Đảng Cộng sản Việt Nam về: “Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển” và “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển”, đã cho thấy, mối quan hệ xuyên suốt, phát triển kinh tế đến đâu phải thực hiện tiến bộ xã hội và công bằng xã hội đến đó, không thể tách rời hai quá trình này. Cụ thể là, không thể chờ khi nào kinh tế đã đạt đến trình độ phát triển cao mới thực hiện công bằng xã hội, lại càng không thể hy sinh công bằng xã hội để chạy theo sự tăng trưởng kinh tế đơn thuần nhằm thoả mãn nhu cầu ích kỷ của thiểu số người đặc quyền, đặc lợi trong xã hội mà quên lợi ích thiết thực của đa số quần chúng nhân dân lao động - những người làm nên sự phát triển kinh tế. Ở đây cũng cần thấy rằng, về thực chất, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên trì, nhất quán quan điểm: Tiến bộ xã hội và công bằng xã hội là hai mục tiêu song trùng của sự phát triển. Điều đó có nghĩa là, trong khi theo đuổi mục tiêu tiến bộ xã hội (phát triển kinh tế- xã hội, trước hết là phát triển lực lượng sản xuất...), tạo tiền đề và cơ sở vật chất - kỹ thuật, văn hoá - xã hội để thực hiện mục tiêu công bằng xã hội. Ngược lại, công bằng vừa là sự thể hiện trình độ tiến bộ hay thước đo (xã hội nhân văn), vừa là động lực quan trọng của tiến bộ xã hội, hai mục tiêu tiến bộ xã hội và công bằng xã hội luôn gắn bó và đồng hành với nhau, làm tiền đề và điều kiện cho nhau.
II. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, hài hòa, đồng bộ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, xã hội
Về kết quả chung, trong những năm qua, đặc biệt là trong 10 năm trở lại đây, để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội Đảng, Nhà nước Việt Nam đã ban hành một loạt văn bản, thể chế quan trọng, cụ thể hóa trên các lĩnh vực, trong đó tập trung về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường. Phát triển kinh tế là cơ sở để đảm bảo việc thực hiện phát triển văn hóa, xã hội và môi trường. Phát triển bền vững môi trường là cơ sở để phát triển bền vững kinh tế, nâng cao chất lượng sống của người dân và đảm bảo sự ổn định, thuận lợi cho thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Đánh giá chung kết quả đạt được, văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “ Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội…Việt Nam đã hoàn thành hầu hết các mục tiêu Thiên niên kỷ…Đời sống và thu nhập của người dân không ngừng được nâng lên”. Có sự thay đổi mạnh trong cơ cấu xã hội, trong đó nhóm nghèo và cận nghèo giảm mạnh, nhóm trung lưu đang hình thành và phát triển nhanh chóng. Năm 2022, thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam đạt trên 4000 USD/người. Nghèo ở Việt Nam được đo lường bằng thu nhập và chỉ số đa chiều, tiếp cận với chuẩn nghèo chung của thế giới. An ninh, an toàn của người dân được đảm bảo hơn, một số điểm nóng, bức xúc xã hội đã được giải quyết kịp thời. Thành tựu giảm nghèo của Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận, được Liên Hiệp Quốc đánh giá là một trong các nước có thành tích giảm nghèo ấn tượng nhất trong thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ. Thất nghiệp giảm từ 6,9% của năm 2001 xuống còn 2,2% của năm 2017 và trên 2,3% vào năm 2022; tỷ lệ biết chữ của người dân cả nước đã tăng rõ rệt qua các thập niên vừa qua. Phụ nữ Việt Nam tham gia vào Quốc hội nhiệm kỳ 2016-2021 đạt 26,72%, tăng hơn nhiệm kỳ trước tới 2,62%. Đại biểu nữ tham gia vào Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, tăng từ 21,57% trong nhiệm kỳ 1999-2004 lên 26,54%, cấp huyện đạt 27,85%, cấp xã cũng tăng mạnh lên 26,59% vào nhiệm kỳ nhiệm kỳ 2016-2021[10].
Ngoài ra, kết quả thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, xã hội còn được thể hiện như sau:
Thứ nhất, nhận thức về văn hóa và gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội của các cấp, ngành và toàn dân được nâng lên. Vai trò của văn hóa ngày càng thể hiện rõ trong việc xây dựng con người, có tác động to lớn trong đời sống xã hội. Phát triển văn hóa được chú trọng hơn về chủ trương, chính sách, nguồn lực và từng bước có sự gắn kết với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng hệ thống chính trị. Phát triển văn hóa được gắn kết chặt chẽ trong quy hoạch, kế hoạch phát triển của các ngành, lĩnh vực, tạo môi trường và điều kiện để người dân được công bằng thụ hưởng các thành quả phát triển chung của đất nước.
Môi trường văn hóa được cải thiện, một số mặt tiến bộ rõ rệt, tạo sự gắn kết cộng đồng, thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội, tăng cường nội lực tinh thần của xã hội. Khai thác tốt hơn nguồn lực của xã hội, đáp ứng nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của nhân dân. Vai trò chủ thể văn hóa của cộng đồng các dân tộc, cộng đồng dân cư từng bước được khơi dậy. Các thiết chế văn hóa được xây dựng, bổ sung từ nhiều nguồn khác nhau, đa dạng loại hình, sở hữu.
Ý thức chính trị, năng lực sáng tạo, trách nhiệm công dân của phần đông văn nghệ sĩ được phát huy. Đội ngũ những người làm công tác văn hóa, văn nghệ có bước phát triển, xuất hiện nhiều văn nghệ sĩ trẻ tài năng ở các loại hình. Bước đầu đã hình thành thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa, nghệ thuật. Phong trào văn hóa, văn nghệ quần chúng phát triển, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Công nghệ thông tin, truyền thông, báo chí, xuất bản phát triển mạnh, nội dung phong phú, hấp dẫn, cơ sở vật chất, kĩ thuật, công nghệ không ngừng được hiện đại hóa. Chính sách hỗ trợ thông tin, báo chí cho các vùng khó khăn được quan tâm.
Các giá trị văn hóa truyền thống được giữ gìn, phát huy, kết hợp tốt hơn với văn hóa đương đại. Văn hóa, văn nghệ dân gian các dân tộc được quan tâm sưu tầm, phổ biến. Đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ người dân tộc thiểu số tăng về số lượng và nâng dần về chất lượng. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân được bảo vệ và bảo đảm trên thực tế. Hoạt động văn hóa từng bước thích ứng dần với cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế.
Nhiều chính sách xã hội đã được triển khai thực hiện, mang lại kết quả tích cực, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, như chính sách với người có công, chính sách an sinh xã hội, gắn phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội ngay từ đầu, trong từng bước đi và trong từng chính sách phát triển. Thể hiện tinh thần đó, kế thừa thành quả đã đạt được qua 50 năm đất nước thống nhất. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định: Đến năm 2030, một số chỉ tiêu chủ yếu: GDP bình quân theo đầu người khoảng 7500 USD; chỉ số phát triển con người HDI duy trì trên 0,7 (năm 2019 là 0,704); tuổi thọ bình quân đạt trên 75, trong đó thời gian sống khỏe mạnh tối thiểu 68 năm; tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 35-40%; tỷ trọng lao động nông nghiệp trọng tổng lao động xã hội giảm xuống dưới 20%. Đây là minh chứng rõ nhất thể hiện tính ưu việt, sự quan tâm của Đảng, Nhà nước Việt Nam đối với việc giải quyết các vấn đề văn hóa, xã hội gắn với tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
Thứ hai, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển, trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tiến bộ và công bằng xã hội được thể hiện ngay từ chủ trương phát triển kinh tế - xã hội, đầu tư phát triển, hưởng thụ kết quả, coi đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho phát triển. Việt Nam là đất nước thống nhất hài hòa của cộng đồng 54 dân tộc anh em. Chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước tạo mọi điều kiện để tất cả mọi người đều bình đẳng cùng tham gia vào công cuộc đổi mới và cùng được thụ hưởng do thành quả của sự nghiệp đổi mới đem lại. Tiến bộ và công bằng xã hội được thể hiện ở tất cả các lĩnh vực đời sống vật chất tinh thần xã hội. Có bước đi phù hợp, gắn kết phát triển kinh tế với văn hóa và tiến bộ, công bằng xã hội.
Tiến bộ xã hội do phát triển kinh tế, văn hóa mang lại được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, mỗi bước phát triển kinh tế, Việt Nam đều gắn kết với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đồng thời khi làm tốt vấn đề này, sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển, quốc phòng, an ninh và đối ngoại được giữ vững, vị thế, hình ảnh Việt Nam ngày càng có vị trí quan trọng ở khu vực và trên thế giới.
Thứ ba, các nội dung phát triển văn hóa, xã hội góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, được thể hiện cụ thể trong tất cả các hoạt động văn hóa, các mục tiêu, nhiệm vụ an sinh xã hội như: chiến lược phát triển gia đình Việt Nam; các địa phương đã lồng ghép việc giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình với các đợt tuyên truyền khác. Công tác truyền thông được coi trọng, đặc biệt đối với các sự kiện văn hóa, như các Ngày Quốc tế Hạnh phúc, Ngày Gia đình Việt Nam, Tháng hành động quốc gia về phòng chống bạo lực gia đình... Xây dựng và nhân rộng các mô hình gia đình văn hóa tiêu biểu. Việc xây dựng văn hóa ở gia đình, làng, bản, khu phố, công sở, trường học, đơn vị, doanh nghiệp, thực hiện nếp sống văn minh trong sinh hoạt cộng đồng… và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại được quan tâm hơn. Từng bước thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền, các giai tầng xã hội, giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Việc thể chế hoá chủ trương của Đảng về thiết chế văn hóa, thể hiện rõ sự gắn kết giữa phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng lĩnh vực, giữa các vùng miền, Nhà nước ban hành được một số văn bản luật quan trọng: Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Luật Di sản văn hóa, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Điện ảnh... tạo hành lang pháp lý cho phát triển văn hóa.
Bên cạnh đó, nhiều quan điểm, chủ trương lớn về phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội tiếp tục được quan tâm cả trong nhận thứ và ban hành chính sách, Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: Nhận thức đầy đủ và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong các chính sách xã hội. Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người. Triển khai đồng bộ và toàn diện các mục tiêu kinh tế, tiến bộ, công bằng xã hội và môi trường. Xây dựng và thực hiện đồng bộ thể chế, chính sách phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội bền vững, hài hòa. Gắn chính sách phát triển kinh tế với chính sách xã hội, quan tâm lĩnh vực công tác xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Phát huy tối đa lợi thế của các vùng, miền; phát triển hài hòa giữa kinh tế, văn hóa, xã hội; quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng chính sách, người có công, người nghèo, người yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số.
Thứ tư, tiến bộ và công bằng xã hội được nâng lên rõ rệt nhờ tăng trưởng ổn định của nền kinh tế, thể hiện rõ ở các lĩnh vực hoạt động văn hóa. Chính sách văn hóa trong lĩnh vực bảo tồn, bảo tàng, di sản được tiếp tục hoàn thiện. Phát huy các di sản được UNESCO công nhận, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam. Năm 2017, “Nghệ thuật bài Chòi Trung Bộ Việt Nam”, “Hát xoan Phú Thọ” đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, nâng tổng số di sản đã được công nhận lên con số 26. Tính đến hết năm 2017, có 3477 di tích quốc gia, trong đó có 95 di tích quốc gia đặc biệt, 142 bảo vật quốc gia, 228 di sản văn hóa phi vật thể. 61.669 di sản văn hóa phi vật thể trên toàn quốc được kiểm kê. Năm 2019 Việt Nam có 8 Di sản thế giới được UNESCO công nhận, trong đó có 5 di sản văn hóa, 2 di sản tự nhiên và 1 di sản hỗn hợp. Trong suốt 50 năm vừa qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn Việt Nam đã huy động được nhiều nguồn lực xã hội, đóng góp vào việc bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích.
Hệ thống tổ chức tư vấn, hội nghề nghiệp về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa được củng cố, từng bước mở rộng và hoàn thiện. Các địa phương quan tâm chỉ đạo thực hiện việc quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa.
Bên cạnh đó, các vấn đề liên quan đến chính sách xã hội, nhất là khu vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn cũng được quan tâm. Hội nghị TW 5 khóa XIII ban hành Nghị quyết về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã xác định: Đến năm 2030, số xã đạt nông thôn mới trên 90%, trong đó 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; số huyện đạt chuẩn nông thôn mới trên 70%, trong đó 35 % số đơn vị cấp huyện đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao. Thu nhập bình quân đầu người của người dân ở nông thôn tăng gấp 2,5-3 lần năm 2020. Thực hiện tốt chính sách xã hội đối với nông dân, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội sẽ góp phần tăng trưởng và phát triển bền vững đất nước.
Thứ năm, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội được cụ thể hóa trong xây dựng thể chế, phát triển ngành, lĩnh vực văn hóa. Trong đó, phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa đã có những kết quả bước đầu, tích cực. Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, chính sách của ngành văn hóa từ bộ chủ quản tới các sở đã cơ bản đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, tiếp tục thể chế hóa các chủ trương, nghị quyết của Đảng về văn hóa. Công tác bảo vệ bản quyền tác giả và quyền liên quan có nhiều chuyển biến tích cực, đã thực hiện nhiều biện pháp thực thi pháp luật về văn hóa... phù hợp với các hiệp định, định chế quốc tế, đặc biệt là các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi, hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp, ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác chỉ đạo, điều hành. Triển khai Kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030.
Các địa phương đã quan tâm đầu tư cho phát triển văn học, nghệ thuật, kiện toàn tổ chức, xây dựng đội ngũ, phát hiện, bồi dưỡng tài năng nhằm nâng cao chất lượng hoạt động hội văn học, nghệ thuật. Nhiều tác phẩm có nội dung tư tưởng nghệ thuật tốt, tác phẩm hay, đặc sắc được lựa chọn và trao giải. Nhiều cuộc thi được phát động, thu hút đông đảo hội viên và văn nghệ sỹ tham gia.
Về những hạn chế, nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền chưa đầy đủ, không ít trường hợp chỉ coi trọng phát triển kinh tế, coi nhẹ mục tiêu văn hóa, xã hội; chưa đầu tư nghiên cứu, dự báo mang tầm chiến lược xu hướng biến đổi xã hội. Nhiều lĩnh vực của phát triển bền vững chưa được nghiên cứu đầy đủ. Một số cơ chế, chính sách xã hội còn chồng chéo, bất cấp, chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn. Chưa đánh giá đầy đủ tác động của mặt trái cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế đối với xã hội, văn hóa, ổn định trong quá trình phát triển. Nhận thức về bình đẳng trong cơ hội thụ hưởng chính sách xã hội chưa thống nhất. Xác định trách nhiệm chưa rõ ràng trong triển khai thực hiện, chưa phát huy đầy đủ sức mạnh của hệ thống chính trị. Việc giải quyết một số vấn đề xã hội chưa hiệu quả; ...giảm nghèo chưa bền vững, chênh lệch giầu- nghèo và bất bình đẳng có xu hướng gia tăng;..chưa có chính sách, giải pháp kịp thời, hiệu quả đối với vấn đề biến đổi cơ cấu, phân hóa giầu- nghèo, phân tầng xã hội, kiểm soát rủi ro, giải quyết mâu thuẫn xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, an ninh cho con người. Thực tiễn những năm vừa qua ở Việt Nam cho thấy, giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế hài hòa với phát triển văn hóa, xã hội thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội bị tác động của nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài, cùng với sự chống phá của các thế lực cơ hội, thù địch; mặt trái của kinh tế thị trường; tác động của mạng xã hội, internet sẽ luôn tiềm ẩn sự bất ổn về xã hội.
Những thành công, hạn chế và yếu kém thời gian qua có cả nguyên nhân chủ quan, khách quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chính, đặc biệt là về những thiếu sót, khuyết điểm, đó là: i).Nhận thức của một số cấp ủy đảng, chính quyền các cấp về quản lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội còn hạn chế. Công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện không thường xuyên, kịp thời. ii).Việc ban hành hệ thống luật pháp, thể chế, chính sách tuy đã được quan tâm, nhưng còn thiếu đồng bộ, kịp thời, một số trường hợp chất lượng còn hạn chế. Công tác nghiên cứu, dự báo chưa theo kịp những thay đổi của thực tiễn; chưa phát hiện và xử lý kịp thời những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện. iii).Điểm xuất phát thấp của nền kinh tế, diễn biến phức tạp của mặt trái kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, gây khó khăn cho việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, hiệu lực, hiệu quả tổ chức thực hiện trên một số lĩnh vực chưa cao.iv) Sự chống phá của các thế lực cơ hội, thù địch luôn tạo ra những nguy cơ tiềm ẩn cho việc mất ổn định ở một số khu vực, nhất là vùng đồng bào dân tộc ít người; tôn giáo, tín ngưỡng...
III Tiếp tục thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, hài hòa, đồng bộ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, xã hội ở Việt Nam thời gian tới
Bối cảnh thế giới và trong nước thời gian tới có nhiều nhân tố tích cực và hạn chế, thời cơ và thách thức trong việc gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế hài hòa với phát triển văn hóa, xã hội thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam. Quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế đi vào chiều sâu, những thành quả của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, mặt trái của quá trình toàn cầu hóa, kinh tế thị trường....Để Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và là nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045. Giải quyết hài hòa mối quan hệ này, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới. Việt Nam cần tập trung vào một số giải pháp sau đây:
Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền về phát triển kinh tế gắn với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong điều kiện mới.
Hai là, tiếp tục thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Đại hội và các hội nghị Trung ương khóa XIII về phát triển kinh tế, văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội thành các chính sách, pháp luật của Nhà nước
Ba là, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, quan tâm, giải quyết tốt những mâu thuẫn trong quá trình phát triển, như: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế phát triển chưa cao, nguồn lực còn hạn chế;
Bốn là, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy sự phát triển.
Năm là, xây dựng, củng cố, phát huy thiết chế văn hoá các cấp, các chương trình mục tiêu quốc gia về chính sách xã hội.
PGS.TS Phạm Văn Linh[1]
_________________
[1] Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương
[2] Báo Cứu quốc, số ra ngày 8/10/1945
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 52, Nxb CTQG, H. tr 407,408
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 52, Nxb CTQG, H. tr 407
[5] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, H.2002, tr.162
[6] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2007, tr.77
[7] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, H.1986, tr.79
[8] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H. 2016, tr.299
[9] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H. 2021, t. I, tr. 119
[10] Báo cáo rà soát quốc gia tự nguyện thực hiện các mục tiêu Thiên kỷ của Việt Nam 6/2018
Tác giả: NVĐ
Nguồn tin: hdll.vn
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn