Trên cơ sở đánh giá đúng thời cơ, thách thức, thế và lực của đất nước, Tổng Bí thư Tô Lâm đã xác định rõ dấu mốc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới là Đại hội XIV của Đảng; từ đây, mọi người dân Việt Nam, hàng trăm triệu người như một, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng tâm hiệp lực, chung sức đồng lòng, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh.
Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại(1). Thực tế cho thấy, đất nước ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, toàn diện; thế và lực của đất nước ngày càng tăng trên trường quốc tế, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Rõ ràng, đây là thuận lợi to lớn, tạo điều kiện cần thiết, chín muồi để Đảng ta đề ra chiến lược phát triển đất nước trong bối cảnh mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, bắt đầu từ Đại hội XIV sắp tới.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử vừa qua, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đã nảy sinh trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đòi hỏi phải nhận diện rõ và có giải pháp xử lý, tạo cơ chế, chính sách, mũi nhọn đột phá chiến lược cho đất nước ta phát triển nhanh, bền vững khi bước vào kỷ nguyên phát triển mới trong những thập niên tiếp theo của thế kỷ XXI.
Theo đó, trong thời gian tới, cần tập trung xác định, làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn chủ yếu về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, hướng tầm nhìn đến tổ chức thành công Đại hội XIV của Đảng; cụ thể là:
Thứ nhất, hoàn thiện lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đến năm 2045.
Cùng với phân kỳ nội dung các chặng đường thời kỳ quá độ, cần làm rõ những vấn đề sau đây: 1- Mỗi chặng đường cần cụ thể hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” thành bộ chỉ tiêu để đo lường mức độ hiện thực hóa, đánh giá sự phát triển của chặng đường sau so với chặng đường trước đó cũng như khả năng tiệm cận chủ nghĩa xã hội. 2- Tiếp tục nghiên cứu để điều chỉnh tính phù hợp, đồng bộ giữa thượng tầng kiến trúc và hạ tầng cơ sở, nhất là giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 3- Đặt đúng tầm mức các vấn đề “hạnh phúc” của con người trong mục tiêu phát triển. Bởi thực tế, có nước thu nhập cao nhưng con người không cảm thấy hạnh phúc, có nước thu nhập không cao nhưng người dân lại có chỉ số hạnh phúc cao, khi con người được thỏa mãn các nhu cầu tinh thần, điều tiết được nhu cầu vật chất còn giới hạn. Vì vậy, cần coi trọng xây dựng chỉ số “hạnh phúc” của con người trong mục tiêu phát triển của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, vấn đề lý luận, thực tiễn về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bổ sung thêm hình thức sở hữu xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sở hữu xã hội tồn tại chủ yếu trong cung ứng dịch vụ xã hội phi lợi nhuận (trường học, bệnh viện, quỹ, trung tâm…), tài chính hình thành từ nhiều nguồn khác nhau (thừa kế, thiện nguyện, cổ phần đóng góp nhưng không chia lợi nhuận theo cổ tức…) mà không có chủ sở hữu cụ thể, do hội đồng tín thác điều hành. Các tổ chức phi lợi nhuận bổ sung cho những giới hạn của các đơn vị sự nghiệp công lập, ngày càng mở rộng quy mô trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Xác lập đầy đủ các quyền tài sản vô hình và tài sản hình thành trong tương lai, nhất là tài sản hình thành từ quyền sở hữu trí tuệ, từ chuỗi giá trị, từ thương hiệu, từ giá trị lịch sử - văn hóa.
Minh định rõ nhà nước là một chủ thể trên thị trường trong trường hợp là đối tác của doanh nghiệp khi ký các hợp đồng theo hình thức đối tác công tư (PPP) hoặc đứng ra kinh doanh vốn nhà nước (phân biệt với nhà nước là chủ thể quản lý). Với tư cách là chủ thể trên thị trường, các cơ quan nhà nước tồn tại với tư cách pháp nhân công, bình đẳng với tư cách pháp nhân tư, nếu vi phạm hợp đồng sẽ bị khởi kiện và thực thi theo phán quyết của tòa án.
Thứ ba, về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Thể chế hóa, cụ thể hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, nhất là trên những vấn đề cốt lõi liên quan đến bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa như: Xây dựng Hiến pháp, luật và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; Phát hiện, lựa chọn, bầu ra các chức danh của bộ máy nhà nước; sử dụng các nguồn lực nhà nước (đất đai, đầu tư công, kinh doanh vốn nhà nước).
Mối quan hệ giữa dân chủ trong Đảng, chế độ dân chủ đại diện với dân chủ trực tiếp phải được thể chế hóa, cụ thể hóa. Làm rõ vai trò quyết định của dân chủ thực chất trong Đảng, chất lượng chế độ dân chủ đại diện đối với thực hành dân chủ trực tiếp cũng như tác động trở lại của mở rộng dân chủ trực tiếp đối với dân chủ trong Đảng và nâng cao chất lượng chế độ dân chủ đại diện.
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phải bao quát tính toàn diện từ dân chủ về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đến ý thức - tư tưởng. Các nội dung này bảo đảm tính đồng bộ để hỗ trợ lẫn nhau trong thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa trong đời sống hằng ngày, nhất là dân chủ về chính trị và dân chủ về ý thức - tư tưởng.
Thứ tư, vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Trong hai chức năng cơ bản của Nhà nước là chức năng thống trị về chính trị và chức năng công quyền thì xu hướng ngày càng mở rộng chức năng công quyền. Nhận thức này có ý nghĩa rất quan trọng bảo đảm cho mọi đổi mới, cải cách phải theo hướng thúc đẩy, mở rộng chức năng công quyền, phát huy dân chủ, chứ không phải chiều ngược lại. Bảo đảm chủ quyền của nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước.
Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc pháp quyền phải được thể hiện bao trùm, đầy đủ, nhất quán trong mọi mặt tổ chức và hoạt động của Nhà nước và xã hội. Luật pháp được sinh ra không chỉ bảo vệ Nhà nước, mà trước hết để thúc đẩy, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Quyền con người, quyền công dân không chỉ được ghi nhận về mặt lập hiến, lập pháp, được bảo đảm về mặt hành pháp, mà còn phải được bảo vệ về mặt tư pháp.
Xây dựng Quốc hội chuyên nghiệp, có tỷ lệ đại biểu chuyên trách phù hợp, đủ năng lực, trình độ thật sự đại diện cho dân, làm luật, giám sát tối cao và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Xây dựng Chính phủ và chính quyền địa phương hiện đại, liêm chính, phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, lấy lợi ích người dân và doanh nghiệp làm đối tượng phục vụ. Phân tách các chức năng chủ thể quản lý, chủ thể trên thị trường, đối tác doanh nghiệp của cơ quan hành chính nhà nước các cấp. Hoàn thiện nền tư pháp hiện đại, đề cao công lý, trong xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp; tòa án phải thật sự trở thành trung tâm của cải cách tư pháp; mọi tranh chấp đều được giải quyết bởi tranh tụng tại tòa và quyết định bằng phán quyết không thiên vị của tòa án.
Thứ năm, khắc phục điểm nghẽn về thể chế
Hiện nay, trên thế giới có sự nhất trí cao là thể chế, chính sách đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia cũng như đối với từng lĩnh vực. Theo đó, xây dựng thể chế, chính sách phù hợp là một trong các tiền đề - điều kiện cho phát triển hiệu quả, bền vững trong kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc ta. Một thể chế phù hợp, tiến bộ sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho sự đổi mới và phát triển, nhưng một khi thể chế không còn phù hợp nữa thì nó có thể trở thành lực cản kìm hãm mọi sáng tạo, khát vọng, tâm huyết và hiệu quả hoạt động của các chủ thể trong xã hội. Bản thân thể chế, chính sách cũng không phải là bất biến, mà nó phải được liên tục đổi mới, hoàn thiện và phát triển cùng với sự phát triển và trình độ xã hội hóa ngày càng cao hơn của xã hội. Nâng cao chất lượng thể chế là khâu đột phá trong chính sách phát triển, trong đó có chính sách phát triển nhân tố con người. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay đang có nhiều “điểm nghẽn” về thể chế, gây cản trở đến phát triển hạ tầng và nguồn lực, làm chậm bước phát triển của đất nước. Yêu cầu đặt ra cấp bách hiện nay là cần có sự đột phá về tư duy để giải quyết bài toán thể chế là “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn”, như chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm(2). Vì vậy, vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về tăng cường hợp tác quốc tế trong xây dựng, hoàn thiện thể chế phát triển, là một định hướng lớn, quan trọng, giúp chúng ta có thể kế thừa những giá trị phổ quát của văn minh nhân loại, phát triển đất nước tiến bước cùng thời đại, thực hiện khát vọng phát triển trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
Thứ sáu, vấn đề quyền con người trong bối cảnh mới
Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, quyền con người ngày càng được đề cao là vấn đề lớn về nhận thức lý luận và thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới sắp tới. Quản lý phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại, xã hội phát triển và hội nhập quốc tế sâu rộng đặt ra trước hết phải có hệ thống pháp luật công bằng, không thiên vị, phù hợp với các cam kết hội nhập quốc tế, buộc phải sửa đổi, điều chỉnh những điểm trước đây luôn được xem là “đặc thù”. Luật pháp đó phải lấy con người làm trung tâm, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người chân chính, buộc sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ những quy định xung đột với luật pháp quốc tế. Nhu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn đòi hỏi phải hoàn thiện chế độ kiểm soát quyền lực, phòng ngừa và ngăn chặn nguy cơ tha hóa quyền lực, đặt ra những vấn đề rất mới về nhận thức và tổ chức thực tiễn cơ chế tổ chức các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, giữa quyền lực trung ương và địa phương, giữa quyền lực chính trị, quyền lực công và quyền lực xã hội. Hoàn thiện nền dân chủ xã hội trong điều kiện mới là nhu cầu tất yếu khi dân chủ hóa trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, ý thức - tư tưởng… ngày càng được mở rộng và nhân dân đòi hỏi ngày càng cao hơn, nhất là quyền chính trị, dân sự, quyền tự do tư tưởng, ngôn luận. Trong điều kiện một đảng cầm quyền, dân chủ trong Đảng, dân chủ trong bầu các cơ quan nhà nước, dân chủ về mặt tư tưởng, học thuật có vai trò cực kỳ quan trọng để phát huy cao nhất sức mạnh con người phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, lý luận về dân chủ hóa, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phải tiếp tục được đổi mới sâu sắc, xem đây là cách thức khơi dậy các nguồn lực và phát huy động lực để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
Thứ bảy, hoàn thiện lý luận về Đảng cầm quyền, Đảng chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về quyết định của mình.
Làm rõ phương thức cầm quyền của Đảng, cốt lõi là vấn đề chính đáng hóa quyền lực chính trị trong quyền lực công, cơ chế bảo đảm thống nhất giữa ý Đảng và lòng dân, có cơ chế để nhân dân tham gia phát hiện, giới thiệu nhân tài khi thực hiện quy trình công tác nhân sự của Đảng. Xác định rõ cơ cấu nào của bộ máy nhà nước nhất thiết phải đảng viên nắm giữ, tỷ lệ chi phối, những vị trí nào không nhất thiết đảng viên, để cơ cấu cho người ngoài Đảng, bảo đảm thu hút, trọng dụng người có đức, có tài ngoài Đảng. Thực hiện đúng phương châm cầm quyền bằng pháp luật.
Cụ thể hóa nội dung Đảng chịu sự giám sát của nhân dân, từ xác định chủ thể giám sát, đối tượng giám sát, nội dung giám sát, phương thức giám sát, thời điểm giám sát, cách thức tiếp thu kết quả giám sát của nhân dân. Mối quan hệ giữa giám sát của các cơ quan dân cử, giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và giám sát trực tiếp của nhân dân, của cộng đồng dân cư, của dư luận.
Cụ thể hóa nội dung Đảng chịu trách nhiệm trước nhân dân về quyết định của mình, từ trách nhiệm chính trị, trách nhiệm đạo đức đến trách nhiệm pháp lý; từ trách nhiệm của tập thể đến trách nhiệm cá nhân, nhất là trách nhiệm người đứng đầu. Phải làm rõ cơ chế từ chức, thống nhất giữa xử lý trách nhiệm chính trị trong Đảng với trách nhiệm hình sự trước pháp luật,… khi gặp phải các sai lầm trong lãnh đạo, cầm quyền.
Thứ tám, vấn đề củng cố, tăng cường, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cần có nhận thức đầy đủ về tầng lớp trung lưu trong cơ cấu xã hội công nghiệp hóa và phấn đấu trở thành quốc gia có thu nhập trung bình cao. Không nên đặt vấn đề sử dụng khái niệm tầng lớp trung lưu thay thế cách tiếp cận cơ cấu giai tầng xã hội truyền thống (công nhân, nông dân, trí thức) mà nó có ý nghĩa phản ánh một mô hình của cơ cấu xã hội bảo đảm công bằng về mặt thu nhập mà ở đó người nghèo và người đều chiếm số ít, số đông trong xã hội là tầng lớp trung lưu (còn gọi là mô hình “cơ cấu xã hội hình quả trám”).
Cả trong nhận thức, hoạch định chính sách xã hội cần khắc phục tình trạng chia cắt, phân biệt đối xử giữa khu vực nhà nước và ngoài nhà nước, nhất là chính sách an sinh xã hội đối với lao động khu vực tư nhân, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Tạo đột phá về chính sách để khơi dậy, phát huy sức mạnh của mọi giai tầng xã hội, nhất là phát huy đầy đủ vai trò của trí thức trong thời đại kinh tế tri thức, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, xây dựng lực lượng doanh nhân đủ mạnh để góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Thứ chín, phát triển lý luận về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng.
Xây dựng hệ giá trị, văn hóa con người Việt Nam phù hợp với thời đại mới trên cơ sở gạn lọc mặt tiêu cực, phát huy mặt tích cực trong truyền thống văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại. Những giá trị văn hóa Việt Nam phải được coi trọng, phát huy như: chủ nghĩa yêu nước gắn với sự nghiệp giữ nước; chủ nghĩa nhân văn dựa trên giá trị cộng đồng; đoàn kết trong điều kiện chiến tranh, thiên tai, lợi ích cá nhân bị tạm thời bị nén lại; cần cù trong lao động hữu hình; anh hùng trong đấu tranh chống ngoại xâm. Những mặt giá trị văn hóa còn yếu phải gia cường, hiện đại, thậm chí phải khắc phục như: chủ nghĩa yêu nước gắn với sự nghiệp phát triển đất nước; chủ nghĩa nhân văn dựa trên tôn trọng giá trị cá nhân; đoàn kết trong điều kiện hòa bình, nhu cầu và lợi ích cá nhân đa dạng; tính cần cù thể hiện ở các loại hình lao động phức tạp, dũng cảm đương đầu với thách thức phát triển. Những giá trị còn thiếu phải được cập nhật, bổ sung như: Dân chủ - pháp quyền, hợp tác, tôn trọng, trách nhiệm, tính khoa học..
Tăng cường tính thống nhất trong đa dạng của nền văn hóa Việt Nam, nhất là giữa tư tưởng văn hóa của giai cấp cầm quyền với giá trị văn hóa đa dạng các giai cấp, tầng lớp; giữa ý thức quốc gia - dân tộc với ý thức tộc người; giữa văn hóa quốc gia - dân tộc với văn hóa các tộc người, cộng đồng địa phương, tín ngưỡng, tôn giáo; giữa quốc ngữ và ngôn ngữ các tộc người; giữa luật pháp với luật tục; giữa quốc sử và lịch sử tộc người; giữa lãnh tụ quốc gia - dân tộc và biểu tượng thủ lĩnh tộc người…
Xử lý hài hòa mối quan hệ giữa sử dụng cơ chế thị trường và phi thị trường, giữa phát triển các sản phẩm văn hóa là hàng hóa dịch vụ với phát triển sản phẩm văn hóa là phúc lợi công cộng, giữa vốn hóa, vật hóa các giá trị văn hóa để trở thành nguồn lực đầu vào cho sản xuất vật chất với tôn trọng, giữ gìn giá trị cao đẹp của văn hóa trong quan hệ cân bằng, hài hòa với sản xuất vật chất.
Bổ sung chức năng hệ điều tiết sự phát triển của văn hóa, làm cho nền sản xuất vật chất dựa trên nền tảng văn hóa, từ xác định nguồn lực đầu vào (vốn văn hóa), mọi hoạt động sản xuất sản xuất kinh doanh (văn hóa kinh doanh) đến chất lượng đầu ra sản phẩm; làm cho tiêu dùng của con người vượt lên lối tiêu thụ bản năng gây hủy hoại môi trường khi vượt ngưỡng chịu tải của năng lực đồng hóa tự nhiên, gây hệ lụy cho chính bản thân con người khi tiêu dùng thiếu tiết chế. Đó là cơ sở cho định hình nền sản sản xuất thông minh, tiêu dùng thông thái, cân bằng và hài hòa giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa thụ hưởng vật chất và tinh thần.
Thứ mười, xử lý tốt vấn đề cơ động xã hội trong bối cảnh phát triển mới
Hiện nay, sự phát triển kinh tế - xã hội nhanh, nhưng đồng thời cũng chứa đựng sự phức tạp, đan xen nhau về kết cấu và sự biến động về tính chất của tầng lớp trong xã hội. Thực tế phát triển qua gần 40 năm đổi mới cũng cho thấy, còn có sự bất cập trong đánh giá về vị thế và uy tín nghề nghiệp trong xã hội, dẫn đến sự phản ánh chưa đúng giá trị nghề nghiệp, làm méo mó và nảy sinh nhiều tiêu cực trong quá trình di động nghề nghiệp của cá nhân: Những ngành nghề có vị thế xã hội chủ yếu liên quan đến quyền lực, trong khi các ngành nghề đòi hỏi phải có trình độ, nhiều “chất xám” như giáo viên, nhà khoa học lại có vị thế khá thấp. Bên cạnh đó, cơ chế và hình thức di động nghề nghiệp ở nước ta trong thời gian qua còn biểu hiện thiếu lành mạnh, chưa công bằng giữa các cá nhân. Tình trạng không ít cá nhân di chuyển để thăng tiến vị trí nghề nghiệp nhanh, nhưng chủ yếu dựa vào các yếu tố quan hệ thân hữu, tiền bạc, chứ chưa thực sự dựa vào năng lực và sự cạnh tranh tài năng giữa các cá nhân một cách bình đẳng, vẫn diễn ra một cách nhức nhối, làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Thực trạng này đặt ra những vấn đề nóng từ phương diện lý luận và thực tiễn, cần tập trung làm rõ thì Đảng mới có thể đề ra được chiến lược phát triển đúng đắn trong kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, đáp ứng sự kỳ vọng, niềm tin, sự mong mỏi của nhân dân về những kỳ tích phát triển của đất nước ta, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng.
Thứ mười một, bổ sung, phát triển lý luận về quốc gia - dân tộc hiện đại và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh phát triển mới.
Bổ sung những nhận thức mới về quốc gia - dân tộc hiện đại như: không gian mạng trong chủ quyền quốc gia, lợi ích cơ bản của quốc gia dân tộc; quyền chủ quyền, quyền tài phán phù hợp với luật pháp quốc tế trong lợi ích chiến lược; hòa bình, hợp tác, tự do, an toàn hàng hải, hàng không trong lợi ích phát triển; hình thái đa quốc tịch của dân cư thời kỳ toàn cầu hóa; trách nhiệm quản trị toàn cầu, tự quản xã hội trong tương quan với quản trị của Nhà nước.
Đối tượng và đối tác trong tình hình mới phải theo diễn biến tình hình, trong đối tác có mặt có thể đấu tranh, trong đối tượng có mặt có thể hợp tác. Đấu tranh để thúc đẩy hợp tác, giảm thiểu mặt khác biệt, xung đột; hợp tác bằng thái độ chân thành, tôn trọng lợi ích chính đáng, tuân thủ luật pháp quốc tế, nhưng cảnh giác với mọi thỏa hiệp giữa các nước lớn gây tổn hại lợi ích Việt Nam. Đấu tranh phải kiên trì, kiên quyết nhưng mềm dẻo, linh hoạt, bằng nhiều phương pháp khác nhau, mục đích là để giữ vững hòa bình, thúc đẩy hợp tác, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc.
Thứ mười hai, vấn đề phát triển đội ngũ làm công tác lý luận trong thời gian tới
Bên cạnh những thành tựu, thì thực tế cũng cho thấy còn có những thách thức, hạn chế, hay “khoảng trống” nhất định từ phía các chuyên gia, nhà khoa học, đội ngũ người làm công tác nghiên cứu lý luận khi chưa bàn thảo thực sự sâu, có hệ thống về một số vấn đề lý luận mới, khó, phức tạp; liên quan đến xác định rõ hơn, sâu sắc hơn nội hàm, mục tiêu, phương thức, điều kiện để đưa đất nước bước vào “kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam” trong thế kỷ XXI. Chẳng hạn như nghiên cứu về kỷ nguyên phát triển mới hiện nay cần phải gắn với tăng cường nghiên cứu lý luận về quốc gia - dân tộc, dân tộc - quốc gia và các khía cạnh mở rộng chủ quyền, lợi ích chiến lược, không gian sinh tồn, trình độ phát triển của quốc gia - dân tộc.
Từ trước đến nay, chúng ta chủ yếu nghiên cứu lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội, còn nghiên cứu lý luận về quốc gia - dân tộc hết sức khiêm tốn, trong khi đó quốc gia - dân tộc hiện đại đã biến đổi khác trước rất nhiều cả về mặt dân cư, nhà nước, lãnh thổ, chủ quyền, nền tảng kinh tế, bản sắc văn hóa, trình độ phát triển,… do tác động của toàn cầu hóa, cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế thị trường hiện đại, quản trị toàn cầu. Chính vì thiếu những luận cứ khoa học cho xây dựng quốc gia - dân tộc, nên chưa rõ khi xác định các trình độ phát triển của quốc gia dân tộc, những điểm tương đồng và khác biệt giữa các loại hình quốc gia - dân tộc, sự mở rộng lợi ích quốc gia dân tộc ngoài khái niệm chủ quyền truyền thống, tính chồng xếp, đan xen, tương tác, chuyển hóa ngày càng lớn giữa những vấn đề quốc nội với quốc tế… Càng khó khăn hơn khi định nghĩa về quốc gia - dân tộc xã hội chủ nghĩa trên các nấc thang phát triển khác nhau, nhất là quốc gia dân tộc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Việc làm rõ những vấn đề đang đặt ra đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là điều kiện cần trong nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, không ngừng tìm tòi, đề xuất các giải pháp đồng bộ, khả thi để phát triển đất nước ta tiến bước cùng thời đại, thực hiện khát vọng phát triển đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, với niềm tin và khí thế mới, vững bước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong thế kỷ XXI./.
PGS, TS Nguyễn Chí Hiếu*
__________
* Vụ trưởng, Trưởng ban Xây dựng Đảng, Tạp chí Cộng sản
(1) Xem: GS, TS Tô Lâm: “Một số nội dung cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; những định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 1-11-2024,
(2) Xem: “Toàn văn: Phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tại Phiên khai mạc Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV”, Báo Điện tử Chính phủ, ngày 21-10-2024, https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/phat-bieu-cua-tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-to-lam-tai-phien-khai-mac-ky-hop-thu-8-quoc-hoi-khoa-xv-119241021113227895.htm
Tác giả: Tuấn Ngọc
Nguồn tin: hdll.vn
Những tin cũ hơn