Tiếp tục xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc theo di nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Thứ năm - 12/09/2024 09:37

Đại đoàn kết toàn dân tộc là một trong những nội dung quan trọng hàng đầu, được thể hiện nhất quán, xuyên suốt trong quá trình Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Thực hiện di nguyện thiêng liêng của Người về đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh hiện nay, chúng ta cần tiếp tục quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm chỉ đạo của Đảng về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa - sự nghiệp vĩ đại của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta.

Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt nhịp bài ca Kết đoàn. Ảnh tư liệu
Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt nhịp bài ca Kết đoàn. Ảnh tư liệu

Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc 

Một là, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng Việt Nam.

Trong hơn 30 năm bôn ba khắp thế giới tìm con đường đúng đắn để cứu nước, giải phóng dân tộc, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh luôn quan tâm nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng của nhiều nước trên thế giới. Từ trải nghiệm thực tiễn phong phú đó, Người đã sớm vạch ra một trong những nguyên nhân sâu xa nhất, cơ bản nhất dẫn đến thất bại của các phong trào cách mạng Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa là lãnh đạo các phong trào đó chưa biết cách tổ chức và đoàn kết các lực lượng dân tộc thành một khối thống nhất để tạo thành sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc. Từ trải nghiệm thực tiễn, Người đi đến kết luận: trong thời đại mới, để đánh bại các thế lực đế quốc thực dân nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, nếu chỉ có tinh thần yêu nước chưa đủ, cách mạng muốn thành công và thành công đến nơi, phải tập hợp được tất cả mọi lực lượng có thể tập hợp, xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc bền vững. Chính vì vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, cơ bản, nhất quán và lâu dài, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. 

Để quy tụ, tập hợp được mọi lực lượng vào khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng cần phải có chính sách và phương pháp phù hợp từng đối tượng. Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, trước những yêu cầu và nhiệm vụ khác nhau, chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng có thể điều chỉnh cho phù hợp với từng giai tầng xã hội, từng nhóm đối tượng khác nhau, song đại đoàn kết dân tộc phải luôn luôn được nhận thức là vấn đề sống còn, quyết định thành bại của cách mạng. 

Chính sách Mặt trận của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra là để thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, như Người đã khẳng định: “Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị”1. Đó là một tư tưởng đúng đắn và hoàn toàn nhất quán, từ chủ trương lập Hội phản đế tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam (năm 1930), đến Thư góp ý gửi cho Đảng ta trong thời kỳ Mặt trận dân chủ và trong các bài viết, bài nói chuyện sau này với Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam... Nhờ tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc nhất quán và đúng đắn, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng thành công khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đưa cách mạng Việt Nam giành được nhiều thắng lợi to lớn, như Người đã viết: “Đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm Cách mạng tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã kháng chiến thắng lợi, lập lại hòa bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền Bắc. Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhân dân ta đã giành được thắng lợi trong công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc”2

Từ việc nghiên cứu thực tiễn trong nước và quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết thành nhiều luận điểm có tính chân lý về đại đoàn kết toàn dân tộc. Người viết: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết chặt chẽ, thì chúng ta nhất định có thể khắc phục mọi khó khăn, phát triển mọi thuận lợi và làm trọn nhiệm vụ nhân dân giao phó”3; “Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”4; “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”5; “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”6; “Đoàn kết là điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt”7; “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”8

Hai là, đại đoàn kết toàn dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng Cộng sản Việt Nam, của dân tộc Việt Nam.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết là sức mạnh, là mạch nguồn của mọi thắng lợi. Do đó, đại đoàn kết dân tộc phải được xác định là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam, phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực, từ đường lối, chủ trương, chính sách, tới hoạt động thực tiễn của Đảng. Trong Lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam ngày 03/3/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”9. Để thực hiện mục tiêu này, Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan điểm quần chúng, phải gần gũi quần chúng, lắng nghe quần chúng, vận động, tổ chức và giáo dục quần chúng, coi sức mạnh của cách mạng là ở nơi quần chúng; phải thấm nhuần lời dạy: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. 

Đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, đồng thời cũng là nhiệm vụ hàng đầu của mọi giai đoạn cách mạng. Nhấn mạnh vấn đề này là nhấn mạnh tới vai trò của thực lực cách mạng. Bởi cách mạng muốn thành công nếu chỉ có đường lối đúng chưa đủ mà trên cơ sở của đường lối đúng, Đảng phải cụ thể hóa thành những mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng phù hợp với từng giai đoạn lịch sử để lôi kéo, tập hợp quần chúng, tạo thực lực cho cách mạng. Thực lực đó chính là khối đại đoàn kết dân tộc. Năm 1963, khi nói chuyện với cán bộ tuyên truyền và huấn luyện miền núi về cách mạng xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trước cách mạng tháng Tám và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm sao cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc. Một là đoàn kết. Hai là làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích của tuyên truyền huấn luyện là: Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà”10

Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng, đại đoàn kết dân tộc không phải chỉ là mục tiêu của Đảng, mà còn là nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Bởi vì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, phải do quần chúng, vì quần chúng. Từ trong phong trào đấu tranh để tự giải phóng và xây dựng xã hội mới tốt đẹp, quần chúng nảy sinh nhu cầu đoàn kết và sự hợp tác. Đảng Lao động Việt Nam (khi đó) phải có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần chúng, chuyển những nhu cầu, những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức trong khối đại đoàn kết, tạo thành sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh vì độc lập của dân tộc, tự do cho nhân dân và hạnh phúc cho con người. Chiều sâu giá trị nhân văn của tư tưởng đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh chính là ở sự gặp gỡ giữa ý Đảng với lòng dân. 

Ba là, đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn thể Nhân dân Việt Nam.

Trên lập trường của giai cấp công nhân và quan điểm quần chúng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập vấn đề DÂN và NHÂN DÂN một cách rõ ràng, toàn diện, có sức thuyết phục, thu phục lòng người. Các khái niệm này có biên độ rất rộng lớn. Người thường sử dụng những khái niệm này để chỉ tất cả những người con dân nước Việt Nam, mỗi một người mang dòng máu con Rồng cháu Tiên, không phân biệt dân tộc đa số hay thiểu số, có tín ngưỡng, tôn giáo hay không tín ngưỡng, tôn giáo; không phân biệt già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo. Như vậy, DÂN và NHÂN DÂN trong tư tưởng Hồ Chí Minh vừa được hiểu với tư cách là mỗi con người Việt Nam cụ thể, vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân, với những mối liên hệ cả quá khứ và hiện tại, họ là chủ thể của khối đại đoàn kết dân tộc và đại đoàn kết dân tộc thực chất là đại đoàn kết toàn dân. 

Nói tới đại đoàn kết dân tộc, cũng có nghĩa là phải tập hợp được tất cả mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. Theo ý nghĩa đó, nội hàm khái niệm đại đoàn kết toàn dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú, nó bao gồm nhiều tầng nấc, nhiều cấp độ các quan hệ liên kết qua lại giữa các thành viên, các bộ phận, các lực lượng xã hội của dân tộc từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới... Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn lâu dài... Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”11. Chữ “Ta” được Người sử dụng là chủ thể, vừa là Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng, vừa là mọi người dân Việt Nam yêu nước nói chung. 

Người còn chỉ rõ, trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hòa mối quan hệ giai cấp - dân tộc để tập hợp lực lượng, không được phép bỏ sót một lực lượng nào, miễn là lực lượng đó có lòng trung thành và sẵn sàng phục vụ Tổ quốc, không phản bội lại quyền lợi của Tổ quốc, của Nhân dân là được. Với tinh thần đoàn kết rộng rãi như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, từ cách mạng giải phóng dân tộc, tới cách mạng dân chủ nhân dân và từ cách mạng dân chủ nhân dân tới cách mạng xã hội chủ nghĩa. 

Bốn là, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc phải kế thừa truyền thống yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc Việt Nam; đồng thời phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng, tin vào nhân dân, tin vào con người.

Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải kế thừa truyền thống yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc. Truyền thống này được hình thành, củng cố và phát triển trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm của cả dân tộc, trở thành giá trị bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người Việt Nam, được lưu truyền qua các thế hệ từ thời dựng nước của các Vua Hùng, tới Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung... Truyền thống đó là cội nguồn sức mạnh vô địch để cả dân tộc chiến đấu và chiến thắng mọi thiên tai địch họa, làm cho đất nước được trường tồn, bản sắc dân tộc được giữ vững. Khái quát truyền thống đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước, đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần yêu nước ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”12. Theo Người, làm cách mạng xóa bỏ xã hội áp bức bóc lột, xây dựng xã hội mới công bằng và dân chủ là một cuộc chiến khổng lồ. Để giành được thắng lợi trong cuộc chiến đó phải xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy được sức mạnh của toàn dân. Muốn vậy, cần phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước13 . 

Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải có lòng khoan dung, độ lượng với con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, trong mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng đều có những ưu điểm, khuyết điểm, mặt tốt, mặt xấu... Cho nên, vì lợi ích của cách mạng, cần phải có lòng khoan dung độ lượng, trân trọng cái phần thiện dù nhỏ nhất ở mỗi con người mới có thể tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng. Người viết: “Sông to, biển rộng thì bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng nó sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì một chút nước tràn đầy, vì độ lượng nó hẹp nhỏ. Người mà tự kiêu, tự mãn, cũng như cái chén, cái đĩa cạn”14. Người đã lấy hình tượng năm ngón tay có ngón ngắn ngón dài, nhưng cả năm ngón đều chụm lại nơi bàn tay để nói lên sức mạnh và sự cần thiết phải thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc. Người cho rằng: “Trong mấy triệu người cũng có người thế này, thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều là dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng, đại độ, ta phải nhận rằng là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải dùng tình thân ái mà cảm hoá họ. Có như thế mới thành đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang”15

Lòng khoan dung độ lượng ở Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải là một sách lược nhất thời, một thủ đoạn chính trị mà là sự tiếp nối và phát triển truyền thống nhân ái, bao dung của dân tộc, từ chính mục tiêu của cuộc cách mạng mà Người suốt đời theo đuổi. Đó là một tư tưởng nhất quán, được thể hiện trong đường lối, chính sách của Đảng đối với những người làm việc dưới chế độ cũ và những người nhất thời lầm lạc biét hối cải. Người tuyên bố: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”16. Người tha thiết kêu gọi tất cả những ai có lòng yêu nước, không phân biệt tầng lớp, tín ngưỡng, chính kiến và trước đây đã từng đứng về phe nào, hãy cùng nhau đoàn kết vì nước, vì dân. Để thực hiện được đại đoàn kết toàn dân tộc, cần phải xóa bỏ hết mọi thành kiến, cần phải thật thà hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Người cho rằng, trong mỗi con người Việt Nam, ai cũng có ít hay nhiều tấm lòng yêu nước tiềm ẩn bên trong. Tấm lòng yêu nước đó có khi bị bụi bặm che mờ, chỉ cần làm thức tỉnh lương tri con người thì lòng yêu nước đó lại bộc lộ sáng tỏ. Với niềm tin vào sự hướng thiện của con người vì lợi ích tối cao của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chân thành lôi kéo, tập hợp được chung quanh mình nhiều người trước đây vốn là quan đại thần của triều đình phong kiến, như Thượng thư Bùi Bằng Đoàn, Khâm sai đại thần Phan Kế Toại... vào khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo điều kiện để họ có đóng góp to lớn vào sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của dân tộc. 

Để thực hành đại đoàn kết toàn dân tộc rộng rãi, cần có niềm tin vào nhân dân. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống, đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân là nguyên tắc tối cao. Nguyên tắc này vừa là sự tiếp nối truyền thống dân tộc “nước lấy dân làm gốc”, “chở thuyền và lật thuyền cũng là dân”; vừa là sự quán triệt sâu sắc quan điểm của các nhà kinh điển mácxít rằng “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Để thực hành đoàn kết rộng rãi, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh Đảng, Nhà nước cần có niềm tin vào Nhân dân; dựa vào dân, sống và đấu tranh vì hạnh phúc của Nhân dân là nguyên tắc tối cao: “Đạo nghĩa là chính sách của Chính phủ đối với dân chúng - chính sách này phải hợp với nguyện vọng và quyền lợi của dân chúng. Đối với dân, Chính phủ phải thi hành một nền chính trị liêm khiết như cải thiện đời sống của nhân dân, cứu tế thất nghiệp, sửa đổi chế độ xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa.v.v. Có như thế dân chúng mới đoàn kết chung quanh Chính phủ, mới vì quyền lợi thiết thân của mình mà hy sinh…”17. Theo Người, DÂN là chỗ dựa vững chắc của Đảng, là nguồn sức mạnh vô tận và vô địch của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, quyết định thắng lợi của cách mạng. Trong bài nói chuyện tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên Việt toàn quốc tháng 01/1955, Người chỉ rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác”18

Năm là, đại đoàn kết toàn dân tộc phải bắt đầu từ trong Đảng; Đảng phải gương mẫu thực hành đoàn kết.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đoàn kết là sức mạnh, là cội nguồn của chiến thắng, thành công. Xây dựng Đảng thành một khối đoàn kết, thống nhất là hạt nhân để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong bản Di chúc thiêng liêng, điều quan tâm đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nói về Đảng, trước hết là vấn đề đoàn kết trong Đảng. Người khẳng định: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và nhân dân ta”. Truyền thống đó được bắt nguồn từ truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam trong lịch sử dựng nước và giữ nước, được Đảng ta kế thừa và phát huy trong giai đoạn lịch sử mới. Thấm nhuần những truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rõ sức mạnh của tinh thần đoàn kết, nhất là sự đoàn kết, thống nhất trong một đảng cầm quyền, trong hạt nhân lãnh đạo. Đoàn kết, thống nhất là quy luật tồn tại, trưởng thành và phát triển của Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam). Đảng có đoàn kết thành một khối thống nhất mới đủ sức mạnh để đánh đổ các thế lực áp bức bóc lột vốn nắm trong tay sức mạnh vật chất to lớn. Đảng có đoàn kết thành một khối thống nhất mới đủ sức lôi cuốn, tập hợp đông đảo quần chúng cần lao vào trận tuyến cách mạng, lật đổ chế độ cũ, xây dựng chế độ xã hội mới. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh dành sự quan tâm đặc biệt đến thực hiện đoàn kết để xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền. Người chỉ rõ: “Ngày nay, sự đoàn kết trong Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo”. Khi viết Di chúc, điều đầu tiên Người quan tâm là nói về tầm quan trọng của đoàn kết trong Đảng: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Theo Người, sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng phải dựa trên cơ sở một mục tiêu, một lý tưởng thống nhất: “Đảng ta vĩ đại, vì ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác”; “Đối với Đảng, đối với nhân dân, chúng ta có một nghĩa vụ vẻ vang là: suốt đời làm người con trung thành của Đảng, người đầy tớ tận tụy của nhân dân”. Tinh thần đoàn kết đó phải được thể hiện ở sự nhất trí, thống nhất trong toàn Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức; được xây dựng, bồi đắp trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, đường lối, chính sách và theo những nguyên tắc tổ chức của Đảng. 

Muốn có sự đoàn kết, nhất trí vững chắc, trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi; đảng viên phải nêu cao kỷ luật tự giác, phải thực hiện tự phê bình và phê bình. Trong Di chúc, Người khẳng định: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định đoàn kết nhất trí phải xuất phát từ tình thương yêu thiêng liêng nhất, sâu sắc nhất, bền vững nhất giữa những người cộng sản. Người viết: “Đồng chí ta, tuy có khi khác nhau về chủng tộc hay khác nhau về nguồn gốc giai cấp, nhưng là những người cùng chủ nghĩa, cùng mục đích, cùng sống, cùng chết, chung sướng, chung khổ, cho nên phải thật thà đoàn kết. Muốn đi tới mục đích, không phải chỉ tổ chức là đủ, phải chân thành trong tư tưởng nữa”. 

Những nội dung trọng tâm tiếp tục xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc theo di nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh 

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn thực hành di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc, thể hiện tập trung nhất ở sự quan tâm đặc biệt cho việc xây dựng và thực hiện chủ trương, chính sách khơi dậy và phát huy sức mạnh của tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để lãnh đạo Nhân dân ta giành thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng ta khẳng định: “Nhờ ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thuận với lòng người, Đảng đã phát triển được tổ chức khắp nước, sớm xây dựng nền tảng lực lượng là công nhân, nông dân và trí thức, đoàn kết các tầng lớp nhân dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất, hình thành các tổ chức quần chúng và lực lượng chính trị, xây dựng lực lượng vũ trang, được nhân dân đùm bọc, che chở, kẻ thù nào cũng đánh thắng”19; “Từ thời đại các Vua Hùng đến thời đại Hồ Chí Minh, đặc điểm quý báu nhất của khối đại đoàn kết dân tộc của chúng ta là tỏa khắp non sông mà quy về một mối, dựa trên một nền, xoay quanh một trục. Hễ là người Việt Nam, ai cũng có lòng yêu nước, đều là con cháu Lạc Hồng”20

Trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” - một công trình tổng kết sâu sắc về việc vận dụng sáng tạo và phát triển những tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện cụ thể của Việt Nam và bối cảnh thế giới từ thập niên 80 của thế kỷ thứ XX, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đưa ra lời khẳng định đanh thép trước toàn thể Nhân dân Việt Nam và cộng đồng quốc tế: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”21

Trong bối cảnh hiện nay, để hiện thực hóa di nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mỗi cơ quan, đơn vị, bộ, ngành, địa phương cần phải xây dựng và thực hiện kế hoạch chương trình hành động về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc theo đúng tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chủ trương một, biện pháp mười, quyết tâm hai mươi” để di nguyện của Người về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trở thành hiện thực sâu sắc hơn nữa trong thực tiễn cuộc sống. Chương trình, kế hoạch hành động về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải thể hiện rõ mọi hoạt động của cả hệ thống chính trị, của mỗi cán bộ, đảng viên phải khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phục vụ lợi ích của Nhân dân. Từ chủ trương, chính sách vĩ mô cho đến xử lý, giải quyết công việc hàng ngày, đều tuyệt đối phải vì lợi ích của người dân, xuất phát từ nguyện vọng và yêu cầu của Nhân dân; giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân. Trong đó, cần tiếp tục thực hiện có hiệu quả những nội dung trọng tâm sau:

Trước hết, cần tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Từng bước chuyển từ tư duy sản xuất công nghiệp sang kinh tế công nghiệp, để kinh tế công nghiệp trở thành động lực vật chất chủ yếu cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng cho giai cấp công nhân. Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, nhà ở và phúc lợi xã hội cho công nhân; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân. Triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày 12/6/2021 của Bộ Chính trị về đổi mới tổ chức và hoạt động của Công đoàn Việt Nam trong tình hình mới để tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của tổ chức công đoàn các cấp phù hợp với cơ cấu lao động, nhu cầu, nguyện vọng của công nhân và yêu cầu hội nhập quốc tế; tập trung làm tốt vai trò đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, tập thể công nhân. Chúng ta cần có định hướng, quản lý tốt việc thành lập và hoạt động của các tổ chức của công nhân tại doanh nghiệp ngoài tổ chức công đoàn hiện nay.

Thứ hai, cần phát huy mạnh mẽ vai trò chủ thể của nông dân - lực lượng lao động, lực lượng sản xuất đông đảo nhất trong quá trình phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với tiếp tục thực hiện có hiệu quả chính sách nông nghiệp, nông dân và nông thôn, tạo ra những bước chuyển vững chắc từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, từ tư duy khối lượng sang tư duy giá trị. Gắn xây dựng giai cấp nông dân với phát triển nông nghiệp và quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa nông thôn. Có chính sách hợp lý để chuyển lao động nông thôn sang các ngành phi nông nghiệp. Huy động và phát huy mọi nguồn lực từ nông dân, nông thôn cùng với các nguồn lực khác để thực hiện thành công mô hình nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh.

Thứ ba, quan tâm xây dựng đội ngũ trí thức và nguồn nhân lực chất lượng cao - lực lượng tinh hoa của đất nước ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đưa những sáng kiến cụ thể thành thể chế, chính sách, pháp luật - động lực chính trị, pháp lý đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước trong tình hình mới theo tinh thần Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023 Hội nghị Trung ương lần thứ 8 khóa XIII về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới. Có cơ chế phát huy dân chủ, tự do sáng tạo và đề cao đạo đức, trách nhiệm trong nghiên cứu khoa học. Ưu tiên đầu tư phát triển hạ tầng, môi trường làm việc, nghiên cứu, đổi mới sáng tạo của trí thức. Trọng dụng, đãi ngộ thỏa đáng đối với nhân tài, các nhà khoa học và công nghệ Việt Nam có trình độ chuyên môn cao ở trong nước và nước ngoài, nhất là các nhà khoa học đầu ngành có khả năng chủ trì các nhiệm vụ khoa học và công nghệ đặc biệt quan trọng. Thực sự tôn trọng, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn, phản biện xã hội của các chuyên gia, đội ngũ trí thức tiêu biểu, nhà khoa học đầu ngành.

Thứ tư, cần triển khai thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 10/10/2023 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới để phát triển đội ngũ doanh nhân cả về số lượng và chất lượng, có tinh thần cống hiến cho dân tộc, có chuẩn mực văn hóa, đạo đức tiến bộ và trình độ quản trị, kinh doanh giỏi, có đủ năng lực và bản lĩnh để đưa Việt Nam trở thành “kỳ tích Sông Hồng”, như người Hàn Quốc đã tạo ra “kỳ tích Sông Hàn”, người Ấn Độ đã tạo ra “kỳ tích Sông Hằng”. Cần loại bỏ những điểm nghẽn, rào cản không cần thiết, bất hợp lý để tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho doanh nhân khởi nghiệp sáng tạo, kinh doanh lành mạnh, cống hiến tài năng; thực hiện trách nhiệm xã hội và tham gia phát triển xã hội. Chính sách thi đua, khen thưởng cần hướng vào tôn vinh, khen thưởng kịp thời, xứng đáng những doanh nhân có nhiều đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; với triển khai phong trào thi đua “Doanh nghiệp Việt Nam hội nhập và phát triển”. Thị trường với sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt đòi hỏi đội ngũ doanh nhân phải cùng với Đảng, Nhà nước tập trung trí tuệ và phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để giành thắng lợi trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 

Thứ năm, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là đòi hỏi cấp bách để phát huy nguồn lực trí tuệ và sức sáng tạo của lực lượng đoàn viên, thanh niên, thế hệ trẻ. Cần phải có những biện pháp phù hợp để phát hiện và trọng dụng hiền tài, tất cả tài năng và sáng tạo đều được sử dụng và phát huy. Cần tăng cường giáo dục thế hệ trẻ về lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, với xã hội; xây dựng môi trường, điều kiện học tập, lao động, giải trí, rèn luyện để phát triển lành mạnh, toàn diện, hài hòa cả về trí tuệ, thể chất và giá trị thẩm mỹ. Chăm lo bồi dưỡng, giáo dục, phát triển toàn diện và bảo đảm quyền của trẻ em; dành những điều kiện tốt nhất, sự chăm lo chu đáo nhất cho trẻ em - chủ nhân tương lai của đất nước.

Thứ sáu, tiếp tục triển khai các chương trình, kế hoạch hành động phát huy truyền thống, tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam; đưa những phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam cùng với truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc thành “quyền lực mềm” trong đời sống kinh tế, chính trị và xã hội. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Tăng cường các chương trình phát triển, hỗ trợ cập nhật tri thức, kỹ năng cho phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Hoàn thiện và thực hiện tốt chính sách, pháp luật về phụ nữ, trẻ em và bình đẳng giới. Kiên quyết xử lý nghiêm theo pháp luật các tệ nạn xã hội, các hành vi bạo lực, mua bán, xâm hại phụ nữ, trẻ em.

Thứ bảy, chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số cần được hoàn thiện, quan tâm hơn nữa, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, huy động, phân bổ, sử dụng và quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Chú trọng tính đặc thù của từng vùng dân tộc thiểu số trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc. Có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều, bền vững. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, người có uy tín tiêu biểu trong vùng dân tộc thiểu số. Nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. 

Thứ tám, tiếp tục vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ “sống tốt đời đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định của pháp luật và hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước. Hỗ trợ để người Việt Nam ở nước ngoài có địa vị pháp lý vững chắc, phát triển kinh tế và đời sống, hòa nhập xã hội của nước sở tại. Nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ công dân, quản lý lao động, du học sinh... Tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc, hướng về Tổ quốc, nhận thức và hành động phù hợp với lợi ích quốc gia - dân tộc, đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thứ chín, tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp, vận động Nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, thực hành dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội. Tiếp tục đổi mới tổ chức bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động, nâng cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư. Thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên, tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, tăng cường đối ngoại nhân dân. 

Để hiện thực hóa di nguyện thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc, chúng ta cần tiếp tục quán triệt nghiêm túc quan điểm chỉ đạo của Đảng về khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa - sự nghiệp vĩ đại của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta./.

Trần Nghị, Tạp chí Tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ

________________

1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG Hà Nội, 2000, tập 7, tr.438.

2. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG Hà Nội, 2000, tập 10, tr.604.

3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG Hà Nội, 2000, tập 7, tr.392.

4. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG Hà Nội, 2000, tập 7, tr.397.

5. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG Hà Nội, 2000, tập 11, tr.22.

6. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG Hà Nội, 2000, tập 11, tr.154.

7. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG Hà Nội, 2000, tập 8, tr.392.

8. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG Hà Nội, 2000, tập 10, tr.607.

9. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG Hà Nội, 2000, tập 6, tr.183.

10. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG Hà Nội, 2000, tập 11, tr.130.

11. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG Hà Nội, 2000, tập 7, tr.438.

12. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG Hà Nội, 2000, tập 6, tr.171.

13. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG Hà Nội, 2000, tập 6, tr.172. 

14. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG Hà Nội, 2000, tập 5, tr.644.

15. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG Hà Nội, 2000, tập 4, tr.246-247.

16. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG Hà Nội, 2000, tập 7, tr.438.

17. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.258-259. 

18. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG Hà Nội, 2000, tập 7, tr.438.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 59, Nxb CTQG, H. 2000, tr.279-280.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 59, Nxb CTQG, H. 2000, tr.292.

21. Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Báo Nhân Dân điện tử, ngày 16/5/2021.

Tác giả: Tuấn Ngọc

Nguồn tin: tcnn.vn

Tổng số điểm của bài viết là: 220 trong 44 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 44 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây